🌿 Bài văn 9+ Cảm nhận 9 câu đầu trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
BÀI LÀM:
[Mở bài ] Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài quen thuộc ấy, khác với những nhà thơ trẻ của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mỹ, cùng thời như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Vỹ Dạ, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa.. Lần đầu tiên lại có một nhà thơ như Nguyễn Khoa Điềm, ông đem đến một tư tưởng mới đầy mới mẻ Đất nước này là của nhân dân, do nhân dân làm ra, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Như nhà thơ từng chia sẻ: "Đất Nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân". "Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh Đất Nước giản dị, gần gũi nhất". Rút ra từ trường ca "Mặt đường khát vọng", đoạn trích "Đất Nước" là sự kết tinh của những sáng tạo độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
* * *
Đất nước có từ ngày đó.."
[Giới thiệu chung thuộc thân bài] Thơ Nguyễn Khoa Điềm có lúc hùng tráng, sôi nổi, có lúc trữ tình tha thiết đầy hào khí nhưng tất cả đều toát lên vẻ đẹp nồng nàn với đời với người. Thơ ông có sự kết hợp nhuần nhị giữa chất trữ tình và chất chính luận, một giọng điệu riêng vừa đằm thắm tha thiết, da diết vừa suy tư đầy tính chiêm nghiệm. Bài thơ Đất Nước là một đoạn trích tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Hình tượng nổi bật trong thơ ông là những thanh niên trí thức, những người dân lao động cần lao với tấm lòng yêu nước nồng cháy. Trường ca mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị-Thiên vào 1971. Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị miền Nam về non sông đất nước cũng như sứ mệnh của thế hệ mình để cùng hòa chung nhịp đập với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Có thể nói chương V là chương hay nhất, thể hiện được một trong những tư tưởng cơ bản nhất, cốt lõi nhất của trường ca – nhận thức về đất nước. Đây là tư tưởng tiền đề có vai trò quan trọng, là điểm tựa cho sự phát triển của toàn bộ bản trường ca này. Đất nước hiện lên trong thơ ông mang một vẻ đẹp mộc mạc chân chất có sự hài hòa giữa con người và cảnh vật, giữa quá khứ thiêng liêng với thực tại anh hùng, giữa trách nhiệm và bổn phận của thanh niên với đất nước.
Chương V mở đầu bằng một giọng điệu hết sức tình cảm thiết tha. Dòng thơ mở đầu đã khẳng định sự tồn tại lâu đời của Đất Nước ta, dân tộc ta.
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"
[Thân bài] Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi". Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì "Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác". Cho nên "khi ta lớn lên đất nước đã có rồi. Cách nói" Đất Nước đã có rồi "đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Cũng như vậy, không biết Đất Nước có tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy Đất Nước của mình rồi, nó hiện diện quanh ta với những gì yêu thương nhất. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển nhiên, nó có chiều sâu cội nguồn cũng như sự hình thành và phát triển bao đời nay.
Đứng trước một Đất Nước thiêng liêng như thế, lòng thơ dâng trào niềm xúc động và thành kính. Hai từ" Đất Nước "được viết hoa một cách trang trọng. Đó là cách mà nhà thơ thể hiện niềm tự hào và lòng thành kính trước Đất Nước của mình. Cụm từ" đã có rồi "mang ý nghĩa khẳng định xuất hiện đã xác nhận một điều rằng cội nguồn của hình tượng này được hình thành từ rất lâu và bắt nguồn từ những gì gần gũi thân thương nhất trong đời sống vật chất lẫn tinh thần hằng ngày, dễ dàng bắt gặp ở mọi nơi.
Suy ngẫm về cội nguồn của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm bỗng phát hiện:
" Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc "
Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về Đất Nước. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương hiện qua qua lời kể" Ngày xửa ngày xưa "của bà của mẹ, là hình ảnh cô Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt, là hình là nàng tiên bước ra từ quả thị.. Cụm từ" ngày xửa ngày xưa "thật quen thuộc và gần gũi với từng con người Việt Nam. Bởi, mỗi câu chuyện là mỗi bài học đạo lí dạy ta biết" ở hiền gặp lành ", biết thiện thắng ác, biết sống thủy chung.. Tác giả không dùng từ ngữ, hình ảnh hoa mĩ tráng lệ mang tính biểu tượng để thể hiện Đất Nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta tìm hiểu Đất Nước có từ nền văn hóa dân gian cha ông ta để lại. Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu đời. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ để lớn lên ta biết yêu thương đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết rằng:
" Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần "
(Truyện cổ nước mình)
Suy ngẫm về cội nguồn của Đất Nước, bên cạnh những câu chuyện cổ tích, cái buổi ban đầu ấy còn được xác định qua một nếp sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu:" Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn ". Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Tại sao Đất Nước lớn lao, kỳ vĩ sao lại chứa đựng trong một miếng trầu bé nhỏ? Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí bởi tất cả những điều lớn lao đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Ví không có những dòng suối nhỏ sao trở thành dòng sông, ví như không có những dòng sông sao có thể trở thành biển cả. Cho nên nhắc đến" miếng trầu "chắc hẳn là nhắc đến một điều sâu thẳm. Câu thơ gợi nhớ về câu chuyện cổ tích" Sự tích trầu cau "được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Miếng trầu mang trong mình những giá trị văn hóa truyền thống, dân dã quen thuộc với người Việt Nam." Miếng trầu bà ăn "là miếng trầu tình nghĩa trong" sự tích trầu cau "khiến ta rưng rưng nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó, hình ảnh" trầu cau "trở thành" miếng trầu là đầu câu chuyện ", trở thành thứ không thể thiếu được trong mọi sự kiện quan trọng của đời người, trong lễ cưới, tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung. Vì thế, từ hình tượng này, miếng trầu cũng được Nguyễn Khoa Điềm xem như là khởi thủy cho sự xuất hiện của Đất Nước trong tiềm thức con người Việt Nam, trở thành một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, tình nghĩa đằm thắm và lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.
Đất nước còn gắn liền với vẻ đẹp truyền thống văn hóa lâu đời của đất nước, con người Việt Nam. Sự phát triển của đất nước còn gắn liền với ý thức chống giặc ngoại xâm. Điều ấy được thể hiện qua cụm từ" dân mình biết trồng tre mà đánh giặc ", gợi liên tưởng đến sự tích Thánh Gióng đứa trẻ 3 năm không nói không cười thế mà chỉ cần một lời gọi cứu nước của sứ giả đã vụt lớn lên. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: Thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hòa bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc" Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ". Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm." Lớn lên "chính là cách nói ẩn dụ về sức mạnh dân tộc – sức mạnh của cả thể chất, vật chất, tinh thần. Khi có giặc ngoại xâm mỗi người dân sẽ chiến đấu hết mình để bảo vệ tổ quốc thân yêu.
Mỗi cuộc kháng chiến thành công đều có sự đóng góp to lớn của nhân dân. Vì vậy, trong cái nhìn lý giải của Nguyễn Khoa Điềm, quá trình đất nước hình thành và phát triển được nhìn nhận trong mối quan hệ với nhân dân. Quá trình phát triển ấy, từ" có "," bắt đầu ", đến" lớn lên "của đất nước không được nhìn nhận trong chiều dài các sự kiện lịch sử của các sử gia, không được nhìn nhận trong sự phát kiến mở rộng lãnh thổ của các nhà địa lý, cũng như không được nhìn nhận bằng sự thay đổi chế độ giai cấp của các chính trị gia mà được nhìn nhận ở một góc độ bình dị gần gũi nhất – đó là cuộc sống của nhân dân. Đất nước hình thành trong nhân dân, phát triển cùng cuộc sống của nhân dân.
Như vậy, trong những cảm nhận ban đầu của Nguyễn Khoa Điềm, khởi nguyên của Đất nước chưa phải là những trang sử hào hùng với những chiến tích thuở hồng hoang vĩ đại mà là những huyền thoại, những truyền thuyết. Lịch sử lâu đời của Đất nước không được cắt nghĩa bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các mốc son lịch sử chói lọi mà được nhìn trong chiều sâu văn hóa và văn học dân gian. Đây cũng chính là điểm mới trong cách tìm về nguồn cội Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Ở những dòng thơ sau, Nguyễn Khoa Điềm lại đưa đến một cách lý giải đặt biệt. Sự xuất hiện và tồn tại của Đất Nước được gắn liền với gia đình. Sự tồn tại ấy như một lẽ hiển nhiên. Xuyên suốt chiều dài bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc, Đất Nước hình thành và phát triển.
" Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng "
" Tóc mẹ thì bới sau đầu "- đó là hình ảnh đặc thù của người phụ nữ Việt Nam, thùy mị, duyên sáng và thật đáng yêu. Nó gợi sự đảm đang tần tảo, hy sinh của mẹ. Đó là những đức tính truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nét đẹp ấy làm ta gợi nhớ đến câu ca dao:
" Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh "
Câu thơ như thể hiện niềm tự hào, nét đẹp văn hóa của con người Việt Nam. Dù người Việt nam đã trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm chống Pháp, chống Mĩ thì người phụ nữ VN vẫn giữ mái tóc kiên cường ấy ở sau gáy.
Không những chỉ là những cảm nhận ở trên về Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận Đất Nước trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình nặng nghĩa như" gừng cay muối mặn ".
" Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn "
Cha mẹ đến với nhau bằng tình yêu thương, sống với bằng sự thủy chung son sắt." Gừng cay muối mặn "gợi sự gian nan khó khăn, những giọt nước mắt đắng cay, vất vả lo toan trong cuộc sống thường nhật. Đây cũng là điểm tựa cho sự phát triển của một gia đình. Dù gian nan, dù cay đắng nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, thắm thiết. Hình ảnh thơ gợi ta nhớ câu ca dao:
" Tay bưng đĩa muối, chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau "
Hay
" Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chin tháng vẫn hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa "
Thành ngữ" gừng cay muối mặn "được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu.. đi vào năm tháng.
Gia đình là một tế bào xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Cách ứng xử trong gia đình cũng ảnh hưởng đến cách cư xử của con người trong mối quan hệ với đất nước. Có thể thấy rằng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã rất tinh tế khi đưa ra chất triết lý này.
Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến" Cái kèo cái cột thành tên ". Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Cũng vì vậy mà bắt đầu xuất hiện tục đặt tên gần với những dụng cụ hằng ngày, khiến con người càng ngày càng gắn bó chặt với cuộc sống xung quanh, khiến họ có trách nhiệm giữ gìn, vun đắp vào ánh lửa của tổ ấm gia đình. Đặt tên là Kèo, là Cột tuy bình dị mà lại ẩn chứa nhiều suy nghĩ sâu xa. Phải chăng khi viết về Đất Nước, tác giả đã dồn nén cảm xúc ngọt ngào và suy tư sâu lắng để làm nên những câu thơ hay?
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó:
" Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng ".
Thành ngữ" Một nắng hai sương "một lần nữa đưa ta về với miền đất trù phú của văn học dân gian, cũng đặc tả sự khó nhọc, vất vả của người dân khi làm ra hạt ngọc trời. Để làm ra một bát cơm thơm, một hạt gạo trắng, là cả một quá trình đầu lo âu và vất vả, người nông dân phải dầm sương, dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Quá trình" xay, giã, giần, sàng "được liệt kê một cách đầy đủ khiến ta hình dung được nối tiếp nhau vừa gợi ra được một chuỗi hành động liên tiếp nhau vừa cho thấy được sự lao động hăng say, miệt mài không ngơi tay của người nông dân ra quá trình làm ra hạt gạo, đó quả là một hành trình đầy gian nan vất vả, cũng chính vì vậy đã đặc tả lại rõ nét đức tính cần cù, chăm chỉ. Phép liệt kê các hành động" xay, giã, giần, sàng "nối tiếp nhau vừa gợi ra được một chuỗi hành động liên tiếp nhau vừa cho thấy được sự lao động hăng say, miệt mài không ngơi tay của người nông dân trong bhịp thơ nhanh, vui tươi như một khúc ca lao động đầy yêu đời.
Câu thơ đánh dấu sự chuyển biến từ thời kì hái lượm tự nhiên sang thời kì trồng cấy để hình thành nền văn minh lúa nước. Lấy hạt gạo làm kho báu của chính mình, bởi vậy hạt gạo được gọi là niềm sống đầy trân trọng và nâng niu, câu thơ gợi nhắc bài ca dao:
" Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. "
Câu thơ cuối cùng khép lại bằng một lời khẳng định về thời điểm hình thành của Đất Nước với niềm tự hào:
" Đất Nước có từ ngày đó.. "
" Ngày đó "vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khú vừa là một phép thế đại từ. Đó là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa" Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca". Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Dòng thơ cuối với dấu ba chấm tạo độ ngân vang cho cả câu thơ gợi sự suy tưởng: Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy.
[Đánh giá chung] Có thể nói, chỉ trong một đoạn thơ rất ngắn. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất tài tình và hiệu quả chất liệu văn hóa, văn học dân gian. Nhà thơ không chỉ ra một bài nào cụ thể, cũng không trích nguyên văn một câu nào trọn vẹn mà chỉ dẫn ra, gợi ra một vài từ ngữ, hình ảnh tiêu biểu. Nhưng từng đó cũng đủ để nhà thơ vừa đạt được mục đích của mình là thể hiện một đất nước dung dị, gần gũi, đời thường vừa gọi dậy trong tâm thức người đọc cả một bề dày và chiều sâu văn hóa nghìn đời của dân tộc với những nét rất đặc thù, rất đáng tự hào. Nén trong từ câu chữ là vốn sống, vốn văn hóa văn học dân gian và những cảm nhận phong phú về đất nước. Ngôn từ bình dị tựa như lời ăn tiếng nói hằng ngày nhưng chứa đựng trong đó là cả một sức gợi mạnh mẽ. Giọng điệu vui tươi, tự nhiên nhưng tràn đầy sức sống, chính vì gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày mà những câu thơ dễ chạm vào trái tim người đọc hơn bao giờ hết. Tất cả đã làm nên thành công cho đoạn thơ nói riêng và cả trích đoạn Đất Nước nói chung.
[Kết bài] Bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.
————————————
👇 Đăng ký lớp học Văn cùng anh Chí Hướng tại đây nhé
🍀 Lớp Văn 9 Online: https://bit.ly/3RTTSrc
🍀 Lớp Văn 10 Online: https://bit.ly/3T1jCDd
🍀 Lớp Văn 12 Online: https://bit.ly/3SYh9JC
Học Văn cùng anh Chí Hướng
Kênh thông tin chia sẻ kiến thức môn Ngữ văn lớp 10,11 và 12
Operating as usual
🌿 TỔNG HỢP KIẾN THỨC "VIỆT BẮC" - TỐ HỮU
#1. Tác giả tác phẩm: https://bit.ly/3B9yJB3
#2. Hoàn cảnh ra đời: https://bit.ly/3sLXDnl
#3. Cảnh chia tay: https://youtu.be/hbiLXIjeedo
#4. Kỉ niệm gắn bó: https://youtu.be/f9bvp9KcrJ0
#5. Nỗi nhớ Việt Bắc: to be update
#6. Khúc hùng ca về cuộc kháng chiến: to be update
#7. Thành công về nghệ thuật: to be update
👇 Đăng ký lớp học Văn cùng anh Chí Hướng tại đây nhé
🍀 Lớp Văn 8 Online: https://bit.ly/43fGx21
🍀 Lớp Văn 9 Online: https://bit.ly/3RTTSrc
🍀 Lớp Văn 10 Online: https://bit.ly/3T1jCDd
🍀 Lớp Văn 11 Online: https://bit.ly/3JLLfxs
🍀 Lớp Văn 12 Online: https://bit.ly/3SYh9JC
CẢNH CHIA TAY GIỮA "MÌNH" VÀ "TA" TRONG BÀI THƠ "VIỆT BẮC"
Đoạn thơ mở đầu đã diễn tả thành công cảnh chia tay thật bịn rịn, lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Cái tài của Tố Hữu là chuyện ân tình cách mạng được tác giả khéo léo thể hiện như chuyện tình cảm lứa đôi. Chính vì thế mà thơ Tố Hữu là thơ chính trị nhưng rất đỗi trữ tình, đi sâu vào lòng người.
Đoạn thơ chỉ có tám câu ngắn gọn nhưng mở ra một trời thương nhớ, một ân tình sâu nặng giữa những người Cách mạng và quê hương cách mạng trong kháng chiến chống Pháp.
Cuộc chia tay cũng đầy bịn rịn nhớ thương nhưng không buồn, không đẫm lệ như những cuộc chia tay trong văn học cổ. Bởi lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng. Đó là cuộc chia tay trong nhớ thương và cả trong niềm vui, niềm tin tưởng của ngày gặp lại.
👇 Đăng ký lớp học Văn cùng anh Chí Hướng tại đây nhé
🍀 Lớp Văn 8 Online: https://bit.ly/43fGx21
🍀 Lớp Văn 9 Online: https://bit.ly/3RTTSrc
🍀 Lớp Văn 10 Online: https://bit.ly/3T1jCDd
🍀 Lớp Văn 11 Online: https://bit.ly/3JLLfxs
🍀 Lớp Văn 12 Online: https://bit.ly/3SYh9JC
🌿 Hạnh phúc bình thường và giản dị lắm
Đừng nói cuộc đời mình tẻ nhạt nhé em
Hạnh phúc ở trong những điều giản dị
Trong ngày, trong đêm
Đừng than phiền cuộc sống nhé em
Hạnh phúc ngay cả khi em khóc
Bởi trái tim buồn là trái tim vui
Hạnh phúc bình thường và giản dị lắm
Là tiếng xe mỗi chiều của bố
Cả nhà quây quần trong căn phòng nhỏ
Chị xới cơm đầy bắt phải ăn no
Hạnh phúc là khi đêm về không có tiếng mẹ ho
Là ngọn đèn soi tương lai em sáng
Là điểm mười mỗi khi lên bảng
Là ánh mắt một người lạ như quen
Hạnh phúc là khi mình có một cái tên
Vậy đừng nói cuộc đời tẻ nhạt nhé em
Tuổi mười tám còn khờ khạo lắm
Đừng tô vẽ một chân trời xa toàn màu hồng thắm
Hạnh phúc vẹn nguyên giữa cuộc đời thường
( “Hạnh phúc” - Thanh Huyền )
- Phân tích bài thơ
🌿 Bí quyết để phân tích một bài thơ lạ
Các em cần lưu ý một số điều sau đây để làm bài thi được tốt hơn.
Phân tích thơ là phân tích những từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, giọng điệu, biện pháp tu từ... được sử dụng trong bài thơ để từ đó làm nổi bật những tư tưởng, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm.
Phương pháp phân tích hoặc cảm nhận giúp cho người đọc nhận ra cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ đó. Đồng thời thấy được tài năng, sự sáng tạo, độc đáo của tác giả trong việc lựa chọn những hình ảnh, từ ngữ có thể miêu tả một cách chính xác và sâu sắc những tư tưởng, tình cảm mà họ muốn gửi gắm.
Dàn ý bài văn phân tích một đoạn thơ cơ bản như sau:
* Mở bài: Giới thiệu tác giả dẫn vào bài thơ và trích dẫn đoạn thơ.
* Thân bài:
- Giới thiệu xuất xứ (bài thơ trích trong tập thơ nào?); hoàn cảnh sáng tác (sáng tác năm nào, gắn liền với sự kiện lịch sử gì nổi bật?); tóm tắt nội dung, bố cục bài thơ.
- Phân tích nội dung, nghệ thuật bài thơ: Lần lượt làm rõ nội dung, nghệ thuật đoạn thơ. Chia đoạn thơ thành từng đoạn nhỏ (gồm những câu thơ có cùng nội dung hoặc liên quan với nhau về nội dung) rồi giới thiệu, trích thơ và phân tích dẫn chứng thơ.
+ Giới thiệu dẫn chứng: Giới thiệu vị trí dẫn chứng, giới thiệu nội dung chính của dẫn chứng, kết hợp nêu vị trí dẫn chứng với nội dung chính.
+ Trích dẫn dẫn chứng: Phải trích nguyên văn và đặt dẫn chứng trong ngoặc kép, viết dẫn chứng thành đoạn riêng.
+ Phân tích dẫn chứng: Dùng lời văn của mình để làm rõ nội dung (nói cái gì? nói như vậy là có ý gì?); nghệ thuật (biện pháp nghệ thuật gì?); ý nghĩa của dẫn chứng (có thể từ ngữ tiêu biểu hoặc cả câu thơ được trích dẫn).
Để phân tích được dẫn chứng phải hiểu nghĩa của từ ngữ, vận dụng những hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh sáng tác bài thơ, những kiến thức đọc hiểu về văn bản, hiểu biết về văn học và đời sống; liên tưởng và tưởng tượng, nhận xét và suy luận (lưu ý: phân tích, cảm nhận chứ không diễn xuôi đoạn thơ, sẽ bị trừ điểm).
- Đánh giá chung thành công về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
- Giải quyết yêu cầu phụ (nếu có).
* Kết bài: Tóm lại, đoạn thơ nổi bật gì về nội dung và nghệ thuật? Gợi liên tưởng rộng hơn, sâu sắc hơn (thường nêu tác động của đoạn thơ đến tư tưởng, tình cảm của người đọc hay đóng góp của đoạn thơ với văn học, với đời sống. Có thể nêu ngắn gọn cảm nghĩ về tác giả, bài thơ, đoạn thơ.
👇 Đăng ký lớp học Văn cùng anh Chí Hướng tại đây nhé
🍀 Lớp Văn 8 Online: https://bit.ly/43fGx21
🍀 Lớp Văn 9 Online: https://bit.ly/3RTTSrc
🍀 Lớp Văn 10 Online: https://bit.ly/3T1jCDd
🍀 Lớp Văn 11 Online: https://bit.ly/3JLLfxs
🍀 Lớp Văn 12 Online: https://bit.ly/3SYh9JC
PHÂN TÍCH PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT TỐ HỮU TRONG "VIỆT BẮC"
Nhà thơ Tố Hữu được đánh giá là “lá cờ đầu” của thơ ca cách mạng. Con đường thơ của ông bắt nhịp và song hành với con đường cách mạng của nhà thơ nói riêng, của sự vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam nói chung từ trước 1945 đến sau năm 1975 qua các tập thơ "Từ ấy", "Việt Bắc", "Gió lộng", "Ra trận", "Máu và hoa", "Một tiếng đờn", "Ta với mình". Trong đó tập thơ "Việt Bắc" được xem là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Mặt khác sự xuất hiện thơ Tố Hữu, ngay từ đầu đã đem đến cho thơ ca cách mạng một điểm nhìn nghệ thuật riêng, với một tiếng thơ mới mẻ, một phong cách thơ độc đáo trên cơ sở kế thừa thành tựu của thơ ca dân tộc và thơ ca đương thời.
Như chúng ta đã biết, không phải mọi nhà văn đều có phong cách nghệ thuật riêng. Người ta chỉ dùng khái niệm này để nói về những nhà văn tài năng mà các sáng tác của họ hợp thành một thể thống nhất và độc đáo, không trộn lẫn, mang đậm dấu ấn cá tính sáng tạo, thể hiện một cái nhìn và cách cảm thụ nghệ thuật riêng. Nhà văn Pháp Mác- xen Pruxt nói: “Đối với nhà văn cũng giống như đối với nhà họa sĩ, phong cách không phải là vấn đề mà là vấn đề là cái nhìn. Đó là sự khám phá mà người ta không thể làm một cách cố ý và trực tiếp; bởi đó là một khám phá về chất, chỉ có được trong cách cảm nhận về thế giới, một cách cảm nhận, nếu không do nghệ thuật mang lại thì mãi mãi sẽ không ai biết đến”.
Căn cứ vào những yêu cầu trên về phong cách nghệ thuật nhà văn, chúng ta đã đủ cơ sở để khẳng định: Tố Hữu là nhà thơ có một phong cách nghệ thuật độc đáo.
Nhìn một cách khái quát, bài thơ "Việt Bắc" là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10- 1954, trung ương Đảng, Chính Phủ… rời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân- tất cả là nguồn sức mạnh to lớn dể dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm đà tính dân tộc, vì thế bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc được thể hiện chủ yếu trên ba bình diện sau đây: “một điểm nhìn nghệ thuật thiên về khuynh hướng sử thi trữ tình, chính trị; một tiếng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết; một tiếng thơ đậm đà tính dân tộc.
1. KHUYNH HƯỚNG SỬ THI TRỮ TÌNH, CHÍNH TRỊ.
Điểm nhìn thiên về khuynh hướng sử thi, trữ tình, chính trị trong bài thơ Việt Bắc được thể hiện qua đề tài, chủ đề của bài thơ khi tái hiện thành công một giai đoạn lịch sử đầy gian khổ nhưng vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ca ngợi công ơn của chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc. Nói cách khác, các sự kiện, các vấn đề của đời sống cách mạng, lí tưởng và chính trị trong “mười lăm năm ấy” qua trái tim nhạy cảm của nhà thơ đều trở thành cảm hứng thực sự. Mặt khác, chính điểm nhìn nghệ thuật mang tính sử thi của nhà thơ đã nâng các nhân vật trữ tình trong bài thơ thành những con người nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng và dân tộc mà tiêu biểu là hình ảnh Bác Hồ: “nhớ ông cụ mắt sáng ngời, áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường, nhớ người những sáng tinh sương, ung dung yên ngựa trên đường suối reo, nhớ chân người bước trên đèo, người đi rừng núi trông theo bóng
2. GIỌNG THƠ TÂM TÌNH, NGỌT NGÀO, THA THIẾT.
Bên cạnh điểm nhìn nghệ thuật mang tính sử thi- cách mạng, phong cách nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc còn được biểu hiện ở một giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, được thể hiện qua cách xưng hô:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
Qua giọng điệu trữ tình gợi nhớ tới ca dao:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”
Phong cách ấy được thể hiện qua những kỉ niệm trong “mười mấy năm ấy” gian khổ mà nghĩa tình:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ lửa, chăn sui đắp cùng…”
Phong cách thơ Tố Hữu còn được thể hiện qua cả lòng biết ơn thành kính đối với Đảng, với Bác Hồ:
“Ai về có nhớ ta không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng của hang…
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào…”
Qua tác phẩm văn học của các nhà văn khác nhau, của các trào lưu văn học khác nhau, người đọc dễ nhận thấy các giọng điệu khác nhau. Chúng ta đã từng biết đến giọng điệu đau buồn, than thở của các trào lưu Thơ Mới; giọng điệu tin tưởng, hào hùng của thơ ca cách mạng… với các nhà văn, đó là giọng điệu điệu nhỏ nhẹ, man mác buồn của Thạch Lam; giọng mỉa mai, chua chát, cay độc của Vũ Trọng Phụng, giọng tha thiết, dằn vặt của Nam Cao; giọng thương cảm thống thiết của Nguyễn Hồng,… chính giọng điêu khác nhau góp phần làm nên phong cách nghệ thuật khác nhau của mỗi nhà văn.
Người ta có lý giải, cắt nghĩa cội nguồn giọng điệu tâm tình, tha thiết của thơ Tố Hữu. Giọng ấy có phần do được thừa hưởng từ điệu tâm hồn của con người xứ Huế với những câu ca, giọng hò tha thiết ngọt ngào của quê hương. Nhưng nó cũng được xuất phát từ quan niệm về thơ của Tố Hữu: “Thơ là chuyện đồng điệu(…). Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí”. Vì thế, nhà thơ đặc biệt dễ rung động với nghĩa tình cách mạng, luôn hướng đến đồng bào, đồng chí mà giải bày tâm sự, trò chuyện, kêu gọi, nhắn nhủ,… có thể tìm thấy tất cả những biểu hiện này của điệu thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc, chẳng hạn:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nhớ mình bấy nhiêu…”
3. ĐẬM ĐÀ TÍNH DÂN TỘC
Nói đến phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc, cùng còn phải nói đến một tiếng thơ đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện. đây là sự kế tục xuất sắc truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển của thơ Tố Hữu.
Xét trên phương diện nội dung, tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc đươc thể hiện tập trung qua bức tranh đời sống hiện thực cách mạng từ khi cuộc kháng chiến chống Pháp còn “trứng nước” cho đến khi thành công:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh.
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa,…”
Là cảm hứng về nghĩa tình, đạo lí cách mạng gắn bó, hòa nhập với truyền thống tinh thần, đạo lí “uống nước nhớ nguồn” vững bền của dân tộc:
“mình đi mình lại nhớ mình
nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”
Xét trên phương diện nghệ thuật, tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc trước hết được thể hiện qua việc nhà thơ sử dụng thành công lối kết cấu lặp lại, vòng tròn cặp đại từ “mìn- ta” phiếm chỉ, gợi nhớ âm hưởng của nghệ thuật ca dao, dân ca, nâng tình cảm của kẻ ở- người đi trong buổi chia li ấy lên cấp độ muôn đời:
“ Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”
“ Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người,…”
lối nói, lối so sánh ví von hợp với cảm thức đại chúng:
“nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều lưng nương”
Cách chuyển nghĩa và cách diễn đạt quen thuộc với tâm hồn người Việt:
“áo chàm đưa buổi phân li
cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Nhà thơ đã sáng tạo hình ảnh thơ thiên về biểu đạt tình cảm hơn là giá trị tạo hình:
“Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai đẻ già…”
Tác giả còn sử dụng phép tiểu đối của ca dao vừa có tác dụng nhấn mạnh ý vừa tạo ra nhịp thơ uyển chuyển cân xứng, hài hòa:
“Chiều Nga Sơn / gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định/ lụa hàng Hà Đông”
Bên cạnh đó, ông còn sử dụng nhuần nhuyễn và có những sáng tạo cho thể thơ lục bát, vì thế có những câu thơ, đoạn thơ khó phân biệt được với ca dao:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Chiều sâu của tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc còn là ở nhạc điệu, đặc biệt phong phú về vần và những phối âm trầm bổng, nhịp nhàng nên dễ ngâm, dễ thuộc:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung…”
Tóm lại, bài thơ Việt Bắc kết tinh và hội tụ khá đầy đủ những nét phong cách lớn của thơ Tố Hữu trên hành trình của thơ ca cách mạng. Phong cách nghệ thuật của bài thơ được thể hiện trên cả phương diện nội dung thể hiện và nghệ thuật biểu hiện, in đậm dấu ấn riêng của một điểm nhìn nghẹ tuật trong cảm hứng sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu so với các nhà thơ cùng thời, tạo ra một tiếng nói mới mẻ và làm phong phú thêm thơ ca cách mạng, thơ ca dân tộc.
👇 Đăng ký lớp học Văn cùng anh Chí Hướng tại đây nhé
🍀 Lớp Văn 8 Online: https://bit.ly/43fGx21
🍀 Lớp Văn 9 Online: https://bit.ly/3RTTSrc
🍀 Lớp Văn 10 Online: https://bit.ly/3T1jCDd
🍀 Lớp Văn 11 Online: https://bit.ly/3JLLfxs
🍀 Lớp Văn 12 Online: https://bit.ly/3SYh9JC
Click here to claim your Sponsored Listing.
Videos (show all)
Location
Category
Contact the school
Address
70000
153 Nguyen Chi Thanh, District 5
Ho Chi Minh City
Official Alumni Page -- High School for the Gifted is an affiliated high school with the Vietnam Nat
Quận Bình Thạnh/thành Phố Hồ Chí Minh
Ho Chi Minh City, 700000
Trường THPT Gia Định - Quận Bình Thạnh - TPHCM Email: [email protected]
Trường Phổ Thông Năng Khiếu
Ho Chi Minh City
[Sân chơi kiến thức thường niên dành cho học sinh Phổ Thông Năng Khiếu] Thách thức Entropy.
Ho Chi Minh City, 848
Cồng thông tin du học toàn diện cho các bạn muốn đi du học. Liên hệ: [email protected]
Dãy J, 280 An Dương Vương, P. 4, Q. 5
Ho Chi Minh City, 70000
TRƯỜNG TRUNG HỌC THỰC HÀNH ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH EXPERIMENTAL HIGH SCHOOL HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION CHẤT LƯỢNG - SÁNG TẠO - NHÂN VĂN - TIÊN PHONG - HỘI NHẬP
VIET NAM
Ho Chi Minh City, 84
ĐẾN VÀ CHIA SẺ NHỮNG GÌ THUỘC VỀ TIẾNG "BÔNG" BẠN NHÉ !!! Connecting people to l
Ho Chi Minh City, 70000
Tiếng Anh Sinh Viên - Nơi chia sẻ những kiến thức hay bổ ích dành cho tất cả mọi người.
37 Đặng Văn Ngữ/Phuờng 10/Q. Phú Nhuận
Ho Chi Minh City, 700000
Trường Trung Học Phổ Thông Hàn Thuyên được thành lập vào năm 1987 do cô Nguyễn Thị Phấn sáng lập.Lúc đầu lấy tên là Phú Nhuận B,sau đổi thành Hàn Thuyên..
110 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3
Ho Chi Minh City
Trường Trung Học Phổ Thông Lê Quý Đôn là trường trung học xưa nhất thành phố
Ho Chi Minh City
Học reading và từ vựng IELTS 13.0 cùng cô Thúy Loan, Việt kiều Mỹ, Tiến sĩ Đại học New York.
1. Thủ Thiêm Dragon, Số 55 Đường Quách Giai, P. Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2. , 2. Feliz En Vista, Số 1 Phan Văn Đáng, P. Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2
Ho Chi Minh City, 84
Trung Tâm Ngoại Ngữ - Trung Tâm dạy kèm Hán Ngữ - Giao tiếp cấp tốc/ Luyện thi/ Tiếng Trung cơ bản