Đức Phật Thích Ca Mâu Ni - Hội Thượng Phật Bồ Tát

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni - Hội Thượng Phật Bồ Tát

Share

Mang Pháp đến cho Tất cả các chúng sanh. Học Phật - Giữ giới - Thiền Định - Trí Tuệ - Tinh Tấn

Operating as usual

28/06/2023

Ước Muốn Của Vị Sa Môn

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam-Mô Sakya-Muni-Buhhda

Tôi nghe như vầy,

Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Phạm chí Sanh Văn, sau giữa trưa thong d**g tản bộ đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên, bạch rằng:
- Thưa Cù-đàm, tôi có điều muốn hỏi, mong Ngài nghe cho, tôi mới dám trình bày.

Đức Thế Tôn nói:
- Ông muốn hỏi điều gì xin cứ hỏi.

Phạm chí Sanh Văn hỏi:
- Người Cư sĩ ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự gì? Có mục đích gì?

Thế Tôn đáp:
- Người Cư sĩ ước muốn được tài vật. Thực hành nơi trí tuệ. Thiết lập bằng kỹ thuật. Y cứ trên nghề nghiệp. Lấy sự cứu cánh của nghề nghiệp làm mục đích.

..

Phạm chí Sanh Văn hỏi:
- Thưa Cù-đàm, người Phạm chí ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự gì? Có mục đích gì?

Thế Tôn đáp:
-Người Phạm chí ước muốn được tài vật. Thực hành nơi trí tuệ. Thiết lập bằng kinh thơ. Y cứ trên trai giới (không làm các điều ác, siêng làm mọi việc lành, tự tịnh tâm ý mình). Lấy Phạm thiên làm mục đích.

Phạm chí Sanh Văn hỏi:
- Sa-môn ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự gì? Có mục đích gì?

Thế Tôn đáp:
- Sa-môn ước muốn được chân lý, thực hành nơi trí tuệ, thiết lập bằng giới, y cứ trên vô xứ, lấy Niết-bàn làm mục đích.

Phạm chí Sanh Văn bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã rõ. Bạch Thế Tôn, nay con xin tự quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Cúi mong Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc, kể từ hôm nay con trọn đời tự quy y cho đến lúc mạng tận.

Phật thuyết như vậy. Phạm chí Sanh Văn sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

-----------------------------------------------
Luận giải:

Cư sĩ (Trưởng giả) ước muốn có nhiều tài sản, vật chất, người hầu kẻ hạ, thân cận và thực hành nơi có trí tuệ, ứng dụng kiến thức khoa học mang lại giá trị thực tiễn, áp dụng trên công việc của mình, lấy niềm vui là thành quả công việc (tài sản hoặc vật chất).

Phạm Chí (Bà-La-Môn) ước muốn có nhiều tài sản, vật chất, được nhiều người cung phụng, thân cận và thực hành nơi có trí tuệ, ứng dụng kinh văn của Phạm Thiên để mang lại giá trị tinh thần tu tập, áp dụng trên buổi các buổi lễ (tế tự, trai tự,…), lấy niềm vui là được trở về với Phạm Thiên.

Sa môn (Người từ bỏ cuộc sống thế tục) ước muốn được hiểu và thương (chân lý), biết nhẫn nhục và nhu hòa, thân cận và thực hành trí tuệ, lấy giới làm thầy của mình, kiểm soát được tam độc (Tham Sân Si), dạt tới cảnh Không (không bị nhiễm ở bất kỳ nơi nào ngay cả trên thân hoặc tâm), lấy niềm vui là niết bàn (an vui, thanh thản, sang suốt, xóa bỏ vô minh, không vọng tưởng,…).

Trích: Đại Tập 4 - Bộ A-Hàm IV - Kinh Trung A-Hàm Số 2 | 149. Kinh Hà Dục

11/06/2023

Nhân Duyên - Pháp Lạc Của Phước

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

"Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

- Đừng sợ hãi phước mà hãy có ý niệm yêu thích. Vì sao vậy? Vì những gì được gọi là phước thì cũng nói là lạc. Sự sợ hãi đối với phước là không có ý niệm yêu thích. Vì sao vậy? Những gì là phi phước được nói là khổ.



- Này Tỳ-kheo, bấy giờ Ta nghĩ: ‘Đó là nghiệp quả gì, là nghiệp báo gì, mà ngày nay Ta có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại oai thần?’.

- Này Tỳ-kheo, Ta lại nghĩ: ‘Đó là ba nghiệp quả, là ba nghiệp báo, khiến ta ngày nay có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần: một là bố thí, hai là điều phục, ba là thủ hộ’.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói bài kệ:
"Quán sát phước báo này,
Diệu thiện, nhiều ích lợi.
Tỳ-kheo, Ta quá khứ
Bảy năm tu từ tâm;
Bảy kiếp thành, kiếp hoại,
Không tái sinh cõi này.
Lúc thế gian hủy hoại,
Ta sanh trời Hoảng dục.
Lúc thế gian chuyển thành,
Ta sanh vào Phạm thiên;
Ở đó, Ta Đại phạm.
Nghìn sanh, Tự Tại thiên;
Ba sáu lần Đế Thích;
Vô lượng trăm Đảnh vương.
Sát-lị Đảnh Sanh vương,
Tối tôn trong loài người.
Đúng pháp, không dao gậy,
Thống trị cả thiên hạ.
Đúng pháp, không dối trá,
Chánh an lạc, dạy dân.
Đúng pháp, lần lượt truyền,
Khắp tất cả cõi đất.
Chỗ giàu sang, nhiều của,
Sanh vào chủng tộc ấy;
Lúa gạo thảy tràn đầy'
Thánh tựu bảy trân bảo.
Do các phước lớn ấy,
Chỗ sanh đều tự tại.
Chư Phật ngự thế gian,
Những điều Phật ấy dạy;
Biết điều này kỳ diệu,
Thấy thần thông không ít.
Ai biết mà không tin,
Như vậy sanh trong tối.
Vì vậy hãy vì mình
Mong cầu đại phước hựu.
Hãy cung kính Chánh pháp;
Thường niệm Pháp Luật Phật".

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành."

-------------------------------
Giải nghĩa và luận giải:

Đức Phật là bậc phước trí nhị nghiêm, đầy đủ phước đức và trí tuệ. Học theo hạnh Ngài, hàng đệ tử về sau đều phát nguyện tu học theo phương châm phước huệ song tu. Dĩ nhiên, trí tuệ mới có công năng quét sạch phiền não để chứng đạt các Thánh quả nhưng phước đức có tác dụng hỗ trợ tích cực nhằm chuyển hóa nghịch cảnh, thuận duyên hơn trong quá trình tự độ và độ tha.

Trên bước đường tu, phước đức có vai trò quan trọng. Muốn có phước đức thì chuyên làm các hạnh lành. Phước đức sẽ làm cho mọi sự thuận duyên, hỗ trợ đắc lực cho người tu. Trước hết là sức khỏe, không khỏe thì không thể tu tiến được. Thân và tâm có mối liên hệ mật thiết với nhau. Bệnh tật và ốm yếu triền miên là một chướng ngại lớn. Kế đến là bốn vật dụng thiết yếu gồm: thực phẩm, y phục, phòng nhà, thuốc men. Thiếu phước thì bốn vật dụng không đủ, khó an ổn để tu hành.

Có phước đức thì những nghịch cảnh, chướng duyên, trở ngại đến từ bên ngoài ít xảy ra, nhờ đó mới an yên mà gắng tu. Quan trọng là đủ phước duyên để gặp được minh sư và Chánh pháp. Pháp Phật thì vô lượng nhưng tìm đúng pháp phù hợp với căn duyên của bản thân chẳng phải dễ dàng. Thầy thì nhiều nhưng tìm ra bậc minh sư có kinh nghiệm về pháp hành để tháo gỡ những vướng mắc nội tâm cũng rất khó. Phải có nhân duyên nhiều đời và đủ phước đức mới tìm được.

Khi đã có thầy và có pháp, mình đã có con đường đi rồi nhưng “tự mình thắp đuốc lên mà đi” vẫn còn nhiều gian nan. Nghiệp lực sâu dày có từ vô lượng kiếp luôn bủa vây, níu kéo, làm trở ngại tâm. Người tu vừa vận dụng phước đức, vừa phát huy cả trí tuệ mới có thể vượt qua nội ma, ngoại chướng. Khi đã có những thành tựu tâm linh nhất định, hướng đến các Thánh quả thì việc tùy duyên hoằng hóa cũng cần hội đủ nhân duyên phước đức mới có thể thành công.

Trích: Kinh Trung A-Hàm Tập 1 | Phẩm 12 | 138. Kinh Phước
Trích: Phước đức hỗ trợ người tu | Quảng Tánh/Báo Giác Ngộ

10/06/2023

Đừng Đánh Mất Tâm Nguyện Ban Đầu

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Trong sự nuôi sống, thấp kém nhất, cùng biên nhất, đó là đi khất thực. Thế gian rất húy kỵ, gọi là ‘đầu trọc, tay ôm bình bát bước đi’. Nhưng thiện nam tử ấy vì mục đích mà chấp nhận. Lý do vì sao? Vì nhàm tởm, ghê sợ sự sinh, già, bệnh, chết, sầu bi, khóc than, ưu khổ, áo não; hoặc để đạt đến biên tế của toàn vẹn khối lớn đau khổ này. Các ngươi há không phải với tâm như vậy mà xuất gia học đạo chăng?

Các Tỳ-kheo bạch rằng: Thật sự như vậy.

Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:

- Người ngu si kia, với tâm như vậy mà xuất gia học đạo, nhưng lại sống theo tham dục, chìm đắm đến tận cùng, sự ô trược quấn chặt lấy tâm, ganh ghét, bất tín, lười biếng, mất chánh niệm, không chánh định, ác tuệ, tâm cuồng, rối loạn các căn, giữ giới hết sức lơ là, không tu Sa-môn, không phát triển rộng lớn.

- Cũng như người dùng mực để giặt những đồ bị mực dính dơ; lấy máu rửa máu, lấy dơ chùi dơ, lấy bẩn trừ bẩn, lấy phân trừ phân, chỉ tăng thêm ô uế mà thôi; bỏ chỗ mờ mịt để vào chỗ mờ mịt, bỏ chỗ tối tăm để vào chỗ tối tăm. Ta nói người ngu si kia giữ giới Sa-môn cũng lại như vậy, nghĩa là nó sống theo tham dục, chìm đắm đến tận cùng, sự ô trược quấn chặt lấy tâm, ganh ghét, bất tín, lười biếng, mất chánh niệm, không chánh định, ác tuệ, tâm cuồng, rối loạn các căn, giữ giới hết sức lơ là, không tu Sa-môn, không phát triển rộng lớn.

Cũng như đống tro tàn giữa những que củi tàn thiêu xác người trong rừng vắng. Núi rừng không cần đến nó, thôn ấp cũng không dùng đến nó. Ta nói người ngu si giữ giới Sa-môn cũng lại như vậy, nghĩa là nó sống theo tham dục, chìm đắm đến tận cùng, sự ô trược quấn chặt lấy tâm, ganh ghét, bất tín, lười biếng, mất chánh niệm, không chánh định, ác tuệ, tâm cuồng, rối loạn các căn, giữ giới hết sức lơ là, không tu Sa-môn, không phát triển rộng lớn."

Rồi Thế Tôn nói bài tụng:

Người ngu muội hỏng đời dục lạc,
Và hư luôn mục đích Sa-môn.
Đạo và tục cả hai đều mất,
Như tro tàn theo ngọn lửa tàn.
Như thể giữa khu rừng hoang vắng,
Xác người thiêu còn lại tro tàn;
Dù thôn ấp, núi rừng, vô dụng;
Người tham mê dục vọng không hơn.
Đạo và tục cả hai đều mất,
Như tro tàn theo ngọn lửa tàn.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

------------------------------------------
Giải nghĩa và luận giải:

Với người hảo tâm xuất gia, tâm ban đầu khi đến với đạo thật đẹp đẽ, trong veo. Họ nhàm chán sinh tử cùng với những não phiền, nhiễu nhương của đời sống thế tục mà quyết chí ra đi. Dấn thân vào đạo, đối mặt với cuộc sống mới đầy cam go, thử thách nhưng luôn ngẩng cao đầu. Kể cả việc ôm bình bát xin ăn rày đây mai đó làm kẻ lữ hành cô độc cũng không nản chí. Nếu đủ duyên lành, gặp được thầy sáng bạn hiền nâng đỡ thì họ sẽ tiến xa hơn vào những khung trời cao rộng.

Nhưng không phải ai cũng như vậy. Một số người kém duyên thiếu phước không tìm được minh sư, lại gặp bạn chẳng hiền, tự thân cũng không tìm cho mình pháp môn tu thích hợp. Thế là tâm tỉnh sáng ban đầu hoen ố dần, nghiệp lực nhiều đời trỗi dậy và buông xuôi đời mình theo dòng nghiệp cũ. Thời Phật còn tại thế, những Tỳ-kheo này bị Ngài quở trách nặng nề, gọi là “người ngu si kia”. Xét cho cùng, được Phật quở trách vẫn còn phước, có cơ hội thức tỉnh mà làm lại từ đầu.

Ngày nay, một số người tu rơi vào tình huống “sống theo tham dục, chìm đắm đến tận cùng, sự ô trược quấn chặt lấy tâm, ganh ghét, bất tín, lười biếng, mất chánh niệm, không chánh định, ác tuệ, tâm cuồng, rối loạn các căn, giữ giới hết sức lơ là, không tu Sa-môn” càng bất hạnh hơn vì không còn người quở trách. Ai còn chút căn lành thì tự hổ thẹn rồi thức tỉnh. Ai không biết quay đầu thì phải đối mặt với nhân quả mà thôi.

Như người rời bỏ chỗ mờ tối lại đi vào chỗ mờ tối, như lấy mực để giặt chỗ bị dính mực. Dù ở lâu trong đạo nhưng hạng người này chẳng có chút chuyển hóa hay tiến bộ tâm linh nào. Dù quyền cao chức trọng, ăn trên ngồi trước cũng uổng phí một đời tu. Trong nhà đạo quý ở chỗ cái tâm. Tâm luôn sáng sạch, ly tham, lìa giận, có giới-định-tuệ và giải thoát mới là nội dung, phẩm chất của người tu hành. Còn hình thức hoành tráng mà nội tâm hoen ố, vẫn đục cũng chẳng ích gì cho cả đạo và đời.

Dĩ nhiên không người tu nào muốn mình rơi vào cảnh này. Mỗi khi nhìn về tâm ban sơ trong sáng một thời mà lòng tràn trề hoài niệm và nuối tiếc. Chướng duyên trong đường tu thì trùng trùng nhưng không tìm ra pháp tu thích hợp cho mình là một trong những nguyên nhân căn bản. Như uống chưa đúng thuốc thì khó hy vọng hết bệnh. Ai có pháp thì họ giữ được đường tu, không bị thối thất, phát huy được giới-định-tuệ. Vì thế, người tu cần trạch pháp, có con đường đi rồi mới có thể tiến tu, vượt qua sự chi phối của vô minh và nghiệp cũ.

Trích: Kinh Trung A-Hàm Tập 1 | Phẩm 12 | 140. Kinh Chí Biên
Trích: Đánh mất sơ tâm | Quảng Tánh/Báo Giác Ngộ

07/06/2023

Lười Biếng - Nguyên Nhân Đưa Đến Sự Hao Tài

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Nhiêu-hà-mô (rừng Trúc, chỗ nuôi sóc). Bấy giờ, trong thành Vương Xá có con của vị Cư sĩ tên là Thiện Sanh. Khi người cha sắp lâm chung, nhân sáu phương mà trối trăng, khéo dạy khéo quở rằng:

- Này Thiện Sanh! Sau khi cha mất, con phải chắp tay mà lạy sáu phương rằng: ‘Ở phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Trên, phương Dưới, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi’.



Đức Phật dạy:

Này con trai Cư sĩ, kẻ mong cầu của cải nên biết sáu điều phi đạo. Sáu điều đó là gì? Một là chơi bời cờ bạc các thứ mà mong cầu tài vật là phi pháp. Hai là rong chơi không phải lúc mà mong cầu tài vật là phi pháp. Ba là đam mê rượu chè mà mong cầu tài vật là phi pháp. Bốn là gần gũi ác tri thức mà mong cầu tài vật là phi pháp. Năm là đam mê kỹ nhạc mà mong cầu tài vật là phi pháp. Sáu là quen lười biếng mà mong cầu tài vật là phi pháp.



Đức Phật dạy:

- Này con nhà Cư sĩ, với người lười biếng, nên biết có sáu tai họa. Sáu món đó là gì? Một là quá sớm, không làm việc. Hai là quá trễ, không làm việc. Ba là quá lạnh, không làm việc. Bốn là quá nóng, không làm việc. Năm là quá no, không làm việc. Sáu là quá đói, không làm việc. Này con nhà Cư sĩ, người lười biếng không phải lúc thì việc làm không kinh doanh được. Việc làm không kinh doanh được thì công nghiệp không thành. Tài vật chưa có được thì không thể có. Tài vật đã có sẵn thì càng lúc càng bị tiêu hao”.

———————————————

Giải nghĩa và luận giải:

Điều phi đạo thứ sáu là quen lười biếng. Biếng nhác là tật xấu cố hữu của rất nhiều người. Không siêng năng, chịu khó làm lụng mà mong dư dả, giàu có và đủ đầy là điều không thể.

Người lười biếng thường có đủ mọi lý do để biện hộ cho sự biếng nhác của mình. Sớm quá, trễ quá, lạnh quá, nóng quá, no quá, đói quá v.v… là những lý do để không làm việc. Họ đâu biết rằng hoàn cảnh khách quan không phải là nguyên nhân chính của chướng ngại mà chính tâm biếng nhác, chây lười mới thực sự làm cho con người mệt mỏi, chán nản, không thiết tha với công việc.

Rõ ràng, lười biếng tư duy và biếng nhác lao động thì không thể thành công trong cuộc sống. Chẳng những sự nghiệp không thành tựu mà còn tiềm ẩn nguy cơ phá nát những gì đang có. Trong đạo cũng vậy, người tu mà không lập hạnh tinh tấn thì sẽ tiêu tan đạo nghiệp. Đối mặt với nhiều sự gian nan, nhất là nghiệp chướng tham sân si nhiều đời nếu không dũng mãnh phát nguyện đi tới thì khó vượt qua trở ngại chính mình. Trôi lăn trong luân hồi nhiều đời kiếp cũng vì không tinh tấn.

Suy nghiệm về cuộc sống để thấy rằng không hề có sự dễ dàng, không làm mà muốn có ăn thì hãy nhớ rằng đằng sau miếng mồi ngon là chiếc bẫy. Muốn tu ít, dễ dàng mà chứng đắc giải thoát cao vời thì liền rơi vào tà đạo. Mọi thứ trên đời đều có cái giá của nó.

Thế nên, mỗi người cần lập hạnh siêng năng, tinh tấn, tìm cách khắc phục lười biếng, giải đãi. Việc dù khó mấy mà ta kiên tâm, bền chí, quyết không lùi bước thì sẽ có ngày thành công. Còn chưa gì đã thấy khó khăn, mệt mỏi, chán chường thì sẽ nhanh chóng bỏ cuộc.

Trích: Kinh Trung A Hàm tập 1 | 135. Kinh Thiện Sanh
Trích: Điều phi đạo thứ sáu: Quen thói lười biếng / Báo giác ngộ | Quảng Tánh
Trang Phật Pháp Cung Cấp: giacngo.vn

04/06/2023

Bông Sen Từ Nơi Tay

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nở ra từ bàn tay nhỏ,
Vẹn tròn hiểu biết yêu thương,
Đóa sen thơm ngát cúng dường,
Trong Người, trong Ta, trong Phật,
Hai tay chấp lại nguyện cầu,
Cầu cho nhân thế tràn đầy an vui.

03/06/2023

Tất Cả Đều Bình Đẳng - Phật Tánh Luôn Ở Trong Chúng Ta

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

- Chúng ta tung cát bụi lên trời, hư không không hề bị hạ thấp xuống mà cát bụi lại rơi xuống trên thân của chúng ta. Hư không không hề phân biệt, giống như một người cha âm thầm che chở cho loài người chúng ta vậy.

- Mặt đất bao la này, các loại cây trái đều sinh ra, chúng không hề lựa chọn người sử dụng.

- Làn gió nhẹ mang đến sự mát mẻ đến cho chúng sanh.

- Nước có thể giải cơn khát cho muôn loài.

- Nước các sông Ganga, sông Yamuna, sông Aciravati, sông Mahi, sông Rohini, vân vân … một khi đã chảy ra biển rồi thì đều trở thành nước biển, cùng một vị mặn như nhau. Cũng thế, bất cứ người thuộc giai cấp nào, dù sang hay hèn, một khi đã xuất gia tu học, quyết tâm xa lìa tham dục, sân hận, si mê, quyết thực hành một lối sống trong sạch, thanh cao, giác ngộ, thì cũng đều có giá trị ngang nhau. Tất cả chúng sanh đều có nhân duyên. Người nào quyết tâm tu tập đạo lý cao thượng đều có thể trở thành bậc thánh nhân.

-------------------------------------
Giải nghĩa và luận giải:

Các yếu tố căn bản: Không gian (Hư không), Mặt đất, Gió, Nước, được Đức Phật dùng để chứng minh cho sự bình đẳng của muôn loài hiện diện tại thế gian, không vì giai cấp của họ mà có sự khác biệt.

Đức Phật thấy rõ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh (chủng tánh giác ngộ), đều sẽ thành người giác ngộ, đều sẽ trở thành ngài. Vậy nên giai cấp hay sự phân biệt đều do vô minh che đi khiến ta nhằm tưởng rằng ta được sinh ra ở đâu thì phải chịu giai cấp đó (được hiểu rằng là sự an bài của thần linh).

Đức Phật luôn hóa độ người có duyên và tìm cầu chân lý, không vì giai cấp nào của Ấn Độ giáo bấy giờ, Sunita là một trường hợp điển hình, là giai cấp thấp, nhưng chủng tánh của vị ấy sáng ngờ, Đức Phật thấy nhân duyên và biết sự tu tập của anh ta trong tương lai sẽ thành tựu nên ngài đã hoan nghênh Sunita vào giáo đoàn.

Vì thời điểm Ấn Độ bấy giờ, các thuyết giáo của Đạo Bà-la-môn cho rằng con người sinh ra ở nơi của vị Đấng Sáng Tạo (Brahma) sẽ quyết định đẳng cấp của họ trong xã hội:
- Sinh ra từ miệng Brahma: Bà-la-môn bao gồm giáo sĩ, tu sĩ, triết gia, học giả và các vị lãnh đạo tôn giáo, là những người giữ quyền thống trị tinh thần, phụ trách về lễ nghi, cúng bái.- Sinh ra từ cánh tay Brahma: Sát-đế-lợi (Kshastriya) là hàng vua chúa quý tộc, quan lại, võ tướng, nắm giữ quyền hành thống trị dân chúng.
- Sinh ra từ bắp vế Brahma: Vệ-xá (Vaisya) là những người bình dân, thương gia, nông dân, có nhiệm vụ đảm đương về kinh tế trong nước (mua bán, trồng trọt, thu hoa lợi cho quốc gia).
- Sinh ra từ gót chân Brahma: Thủ-đà-la (Sudra) là hàng tiện dân, phải thủ phận và phải phục vụ các giai cấp trên.
- Ngoài ra: còn một cấp độ ngoài còn gọi: Chiên-đà-la (Ba-ri-a, Pariah, Dalit) là giai cấp người cùng khổ. Ấn Độ giáo coi họ là đẳng cấp hạ tiện nhất. Họ phải làm các nghề hạ tiện nhất (gánh phân, dọn nhà vệ sinh, giết mổ gia súc), bị coi như sống ngoài lề xã hội loài người, bị các giai cấp trên đối xử như thú vật, bị coi là thứ ti tiện, vô cùng khổ nhục, tối tăm, không được chạm tay vào người thuộc các đẳng cấp khác, thậm chí không được giẫm lên cái bóng của những người thuộc đẳng cấp cao như Bà-la-môn, Sát-đế-lỵ.

Ấn Độ giáo này quy định rất nghiêm khắc về sự phân biệt các đẳng cấp người tại Ấn Độ:
- Tổ tiên thuộc đẳng cấp nào thì con cháu cũng thuộc đẳng cấp đó, dù có gắng phấn đấu đến đâu thì cũng không thể được xếp lên đẳng cấp cao hơn (ví dụ: một người Thủ-đà-la dù tài năng, chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công thì cũng mãi chỉ là lính, không bao giờ được bổ nhiệm làm tướng quân vì chức vị đó chỉ dành cho người thuộc đẳng cấp Sát-đế-lỵ trở lên).
- Người thuộc các đẳng cấp chênh lệch xa thì không được kết hôn với nhau (ví dụ: một người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn, Sát-đế-lỵ thì có thể kết hôn với 1 người cũng thuộc đẳng cấp Bà-la-môn hoặc Sát-đế-lỵ, cùng lắm cũng chỉ kết hôn với 1 người Vệ-xá giàu có, chứ tuyệt đối không được kết hôn với Thủ-đà-la trở xuống)
- Một số công việc chỉ dành cho người thuộc đẳng cấp cao, đẳng cấp thấp hơn không được phép làm, nếu vi phạm sẽ bị trừng phạt (ví dụ: việc cúng tế tôn giáo chỉ có đẳng cấp Bà-la-môn được phép làm; chức vị quan lại, tướng quân chỉ có đẳng cấp Sát-đế-lỵ trở lên được phép làm)

Trích: Phim Cuộc Đời Đức Phật
Trang Phật Pháp Cung Cấp: https://www.facebook.com/PhatPhapThietThuc

02/06/2023

Không Phóng Dật - Căn Bản Của Thiện Pháp

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sinh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ nhất.

- Cũng như làm ruộng, tất cả đều nhân nơi đất, y cứ trên đất, thiết lập trên đất mới làm được ruộng. Cũng vậy, nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sinh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ nhất.

- Cũng như hạt giống, các loại hạt giống, các loại thảo mộc, trăm giống lúa, cây thuốc được phát sinh, trưởng dưỡng, tất cả đều nhân nơi đất, y cứ trên đất, thiết lập trên đất mới được sinh trưởng. Cũng vậy, nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sinh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ nhất.



————————————————————————
Giải nghĩa và luận giải:

Phóng dật là sự buông lung, phóng tâm lao theo, dính mắc và chìm đắm vào trần cảnh. Đây chính là nguyên nhân khiến cho chúng sinh tạo ra vô số lỗi lầm, suy đồi đạo đức, sút giảm phước báo, chịu nhiều đau khổ. Nghiệp của chúng sinh là phóng tâm lao theo và cố níu giữ những điều mình ưa thích. Dĩ nhiên ai cũng muốn đủ đầy (năm dục: tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ) và thỏa mãn nhu cầu của các giác quan (năm trần: cảnh đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái) nhưng ít ai biết tiết chế, điều độ, cân bằng để được an yên.

Để cho thân khỏe, tâm an mỗi người rất cần sự tỉnh thức với tinh thần “muốn ít và biết đủ”. Buông lung trong ăn uống sẽ tạo ra bệnh tật. Chìm đắm trong hưởng thụ sẽ rơi vào lối sống vị kỷ, vun vén cho cá nhân. Để phục vụ cho lợi ích riêng mình, không ít người đã chọn con đường dối gian, bất chính và gánh chịu ngay các hậu quả nhãn tiền. Thế nên “muốn ít và biết đủ”, hưởng thụ có chừng mực, không buông lung phóng dật sẽ giúp chúng ta tránh được những sai lầm đáng tiếc.

Để thành tựu hạnh không phóng dật, chúng ta cần tu tập chánh niệm tỉnh giác và làm chủ các căn (giác quan). Cuộc sống muôn màu, xung quanh ta luôn có nhiều điều hấp dẫn, gọi mời. Trần cảnh tốt đẹp vốn không có lỗi, lỗi ở chỗ ta không làm chủ được tâm ý của mình vì thiếu chánh niệm tỉnh giác. Luôn an trú tâm vào đề mục hay an trú vào hiện tại, tỉnh giác để rõ biết các trạng huống tâm của mình, thấy có dính mắc và nguy hiểm liền xả buông.

Một người sống không sa đà thụ hưởng, hạn chế tạo ra các lỗi lầm, sống có đạo đức và giới hạnh đã là thực hành thiện pháp. Sống có trách nhiệm, thiết lập sự thăng bằng, thiểu dục và tri túc, thân tâm an lạc là phát huy thiện pháp. Biết sẻ chia, giàu lòng vị tha, chung tay vì hạnh phúc cho mọi người là thiện pháp được thăng hoa thêm. Tất cả những pháp lành này được kiến tạo trên nền tảng không phóng dật. Vì vậy Thế Tôn xác định, không phóng dật là căn bản của mọi sự thiện lành.

Trích: Kinh Trung A-hàm | Phẩm 12 - Đại | 141. Kinh Dụ
Trích: Không phóng dật căn bản của thiện pháp | Quảng Tánh/Báo Giác Ngộ
Trang Phật Pháp Cung Cấp: giacngo.vn

26/08/2022

Hạt Cơm Cúng Phật

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Ngày xưa, ngoài thành Xá Vệ có một nhà nữ Phật tử thuần thành, nhưng bà ta lại gặp một người chồng, không tin có đạo đức, nhân quả, tội phước, dù bà ta nhiều lần giảng giải.

Một hôm Ðức Thế Tôn, mang y ôm bát đến nhà bà khất thực, gặp lúc chồng bà vắng nhà, bà mang đồ ăn ra cúng dường Ðức Thế Tôn, rồi đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, Ðức Phật chú nguyện cho bà: “Gieo một gặt mười, gieo mười gặt trăm, gieo trăm gặt ngàn. Nhờ công đức bố thí bát cơm này, thí chủ sẽ được vô lượng phước báu”.

Trong lúc Thế Tôn đang thuyết giáo, thì người chồng từ thành Vương Xá trở về. Nghe Ðức Phật nói như vậy, chẳng hiểu nghĩa lý gì cả, anh sấn tới trước Ðức Phật:

- Này Sa Môn Cù Ðàm, làm gì mà được nhiều như vậy? Sa Môn nói láo, Sa Môn nói không thật! Sa Môn hãy đi khỏi chỗ này đi.

Dù anh ta ăn nói lỗ mãng, nhưng Ðức Thế Tôn vẫn mỉm cười. Ngài ôn tồn bảo:

- Này anh, anh từ đâu, mà về đây?

- Từ trong thành về.

- Anh đi ngang qua khu rừng, có thấy cây Ni Câu Loại không?

- Thấy.

- Anh thấy nó bao cao?

- Cả hàng trăm thước.

- Mỗi năm nó cho được bao nhiêu trái?

- Ồ không kể hết, chỉ có đem thúng mà lường thôi.

- Này anh, đầu tiên chỉ có một hạt bé tí mà sanh ra cây Ni Câu Loại cao hàng trăm thước, cành lá sum suê chiếm một khoảng rừng rộng lớn, mỗi năm nó cho ta hàng trăm ngàn quả. Này anh, đó là loài vô tri còn như vậy huống là thí chủ hoan hỷ cúng dường cho Như Lai một bữa ăn, phước đức ấy không thể đo lường được.

Nghe Ðức Thế Tôn thuyết giảng, anh chàng hồ đồ ấy trong tâm bừng tỉnh, rất lấy làm ăn năn hành động thô ác của mình vừa rồi, liền đến quỳ dưới chân Thế Tôn cầu xin sám hối.

- Kính bạch Thế Tôn, kính mong Thế Tôn từ bi tha lỗi cho con, từ đây con xin quy y Phật, Pháp và Tăng mong Thế Tôn nhận cho con làm Ưu Bà Tắc.

- Lành thay cư sĩ.

Ngay tại chỗ, hai ông bà đều chứng quả Dự Lưu.

Trích: Truyện Cổ Phật Giáo.

25/08/2022

Người Ưa Tranh Cãi Sẽ Rất Khó Tu

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong Đông viên, giảng đường Lộc Mẫu. Hắc Tỳ-kheo, con bà Lộc Mẫu, thường ưa tranh cãi, đi đến chỗ Phật. Thế Tôn thấy Hắc Tỳ-kheo từ xa đi lại, nhân vì có Hắc Tỳ-kheo nên Ngài nói với các Tỳ-kheo:

- Hoặc có người thường ưa tranh cãi, không khen việc đình chỉ tranh cãi. Nếu có người thường ưa tranh cãi, không khen việc đình chỉ tranh cãi, thì đó là pháp không thể ái lạc, không thể ái hỷ, không thể khiến cho có ái niệm, không thể khiến cho có kính trọng, không thể khiến tu tập, không thể khiến nhiếp trì, không thể khiến xứng đáng là Sa-môn, không thể khiến được nhất ý, không thể khiến chứng đắc Niết-bàn…

Luận:

Hắc Tỳ-kheo (Kālaka Bhikkhu) là người tu đã khá lâu mà còn nặng tập khí tranh cãi. Dĩ nhiên biện giải về giáo pháp hay kinh nghiệm tu hành cũng cần thiết trong vài trường hợp nhưng tranh cãi thì không nên. Bởi bản chất của tranh cãi thường dựa trên chấp thủ tự ngã và xuất phát từ tâm bất mãn, sân giận.

Trong đại chúng nếu có người ưa cự cãi thì thật phiền. Đức Phật nhiều lần sử dụng cụm từ “họ đấu tranh nhau bằng binh khí miệng lưỡi” để hình dung những lời hung ác, các tiếng khó nghe khi cãi vã lẫn nhau cũng chan chát và tóe lửa như gươm giáo chạm nhau. Sự lời qua tiếng lại, tranh cãi đôi co không dứt cứ tưởng chỉ có ở chợ đời, nào ngờ trong các hội chúng tu hành cũng không phải là hiếm.

Khi gặp những điều chưa hiểu hay bất đồng thì người tu cần phải giải trình với ngôn từ nhẹ nhàng, tâm từ ái để sẻ chia, tìm ra tiếng nói chung trong sự hòa hợp. Pháp và Luật là thước đo căn bản, là chuẩn mực để minh định phải trái, đúng sai. Thành ra, mỗi người tu cần hiểu biết cơ bản về Pháp và Luật để an trú trong Chánh pháp.

Tranh cãi thì tâm bất an, nếu sân giận xuất hiện thì hỷ lạc vắng mặt. “Người thường ưa tranh cãi, không khen việc đình chỉ tranh cãi, thì đó là pháp không thể ái lạc, không thể ái hỷ”. Ái niệm là nghĩ đến nhau với tâm yêu thương và kính trọng, sau khi cãi nhau mà có ái niệm cũng là điều khó. Trong việc tu tập thì dư âm của tranh cãi là loạn động không thể nhiếp tâm, an trú tâm vào đề mục. Sau mỗi lần tranh cãi, thua thì tức giận, thắng thì hả hê thành ra không “nhiếp trì” được tâm.

Quan trọng hơn, ưa tranh cãi thì không xứng đáng là Sa-môn Thích tử. Sa-môn chuẩn mực, xứng đáng thì phải thanh tịnh và lục hòa. Những hội chúng ồn ào, náo nhiệt, ưa tranh cãi, hành vi thô tháo thường được Thế Tôn gọi là Bà-la-môn. Hạnh nghi, ứng xử, ăn nói của người tu luôn nhẹ nhàng, hợp oai nghi, đúng giới luật. Người ưa tranh cãi, gây bất hòa thì chẳng những không xứng đáng mà còn gây tổn thương đạo pháp, bất an cho đại chúng, khiến mọi người phải lánh xa.

Như đã đề cập, người ưa tranh cãi sẽ rất khó tu cũng như rất khó có thể hòa hợp với đại chúng. Một đời sống bình yên, thương kính, hòa ái để sống chung an lạc mà chưa thiết lập được thì làm sao người ưa cãi cọ, tranh đấu có thể kỳ vọng chứng đắc các bậc thiền, khai mở tuệ giác để thành tựu giải thoát, Niết-bàn.

Trích: Kinh Trung A-hàm | Phẩm Uế | 94.Kinh Hắc Tỳ-kheo
Trích: Người ưa tranh cãi sẽ rất khó tu | Quảng Tánh/Báo Giác Ngộ

11/08/2022

Rằm tháng bảy là ngày tự tứ,
Mười phương Tăng đều dự lễ này!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
‐---------------------------------------------------------------‐-‐-----
Luận:
Tự tứ, tiếng Phạn là Pravāraṇā, Trung Hoa dịch âm là Bát-lợi-ba-lạt-noa, Bát-hòa-la, dịch ý là mãn túc, hỷ duyệt, tùy ý sự, chỉ cho sự thỉnh cầu người khác chỉ điểm những lỗi lầm, khuyết điểm của mình, được tiến hành vào ngày trăng tròn kết thúc ba tháng an cư mùa hạ, tức rằm tháng Bảy, theo âm lịch các nước Việt Nam, Trung Hoa. Sự chỉ điểm này được căn cứ trên ba trường hợp kiến, văn, nghi, tức do được thấy, được nghe và được nghi ngờ. Ngày ấy, chúng Tăng tập họp, từng vị một ra trước đại chúng cầu xin được đại chúng soi sáng, bằng cách chỉ cho mình thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm, mà vì vô tình hay cố ý, mình đã sai phạm, nhưng do vô tri, không thể tự thấy biết. Sau khi đại chúng chỉ cho thấy rồi, thì thành tâm sám hối. Sám hối rồi thì sẽ được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh tự nhiên phát sinh hoan hỷ, nên gọi là Tự tứ. Sau khi Tự tứ, vị Tỳ-kheo được thêm một tuổi giới, nên Tự tứ cũng gọi là thọ tuế, nhận thêm một tuổi đạo, mà ta thường gọi là hạ lạp.

Want your school to be the top-listed School/college?

Website