Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú

Nam Mô A DI ĐÀ PHẬT

Operating as usual

19/11/2023

NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20-11: NHỮNG GÌ THẦY CHỈ DẠY CHO CHÚNG TA, CHÚNG TA ĐỀU NHẬN BIẾT, ĐỀU TIẾP NHẬN VÀ CŨNG ĐỀU THỰC HÀNH, ĐÂY MỚI LÀ PHỤNG SỰ SƯ TRƯỞNG

"Học Phật nhất định phải từ “Tam phước” (xem chú giải trang 135) của “Quán Kinh” bắt đầu, không từ đây tu hành thì không cách nào được thành tựu. Phật đã nói rất rõ đây là “ cái nhân chính để tu tịnh nghiệp của ba đời chư Phật”. Nói một cách khác là chư Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai muốn thành Phật, nhất định phải đi con đường này. Nếu chúng ta không đi con đường này, muốn thành Phật thì không thể nào… Trong Phật pháp nói đến hiếu thuận cha mẹ, cho nên, thật hiếu thuận thì phải khuyên cha mẹ niệm Phật. “Phụng sự sư trưởng” cũng không dễ dàng. Phụng sự sư trưởng có phải là chiếu cố tốt cho cuộc sống của sư trưởng? Không chỉ có thế. Quý vị xem “ Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyên Phẩm” có nói đến sự cúng dường. Trong các sự cúng dường, Pháp cúng dường là tối thắng. Trong “Pháp cúng dường” lại có “Y giáo tu hành” là đệ nhất. Tiêu chuẩn của Phổ Hiền Bồ Tát là những gì thầy chỉ dạy cho chúng ta, chúng ta đều nhận biết, đều tiếp nhận và cũng đều thực hành. Đây mới là phụng sự sư trưởng.

Thế giới ngày nay là loạn thế, từ xưa đến nay chưa có tình thế hỗn loạn như bây giờ. Nếu muốn tìm sự căn nguyên của sự hỗn loạn, đó là chúng ta đã bỏ mất những lời giáo huấn của chư Phật, Bồ Tát và các bậc Thánh hiền nhân… Chúng ta hy vọng Phật, Bồ Tát đến cứu là không thể được. Chúng ta phải biến mình thành Phật, Bồ Tát để cứu vớt xã hội này. Từ đâu mà cứu vớt? Phải từ “Hiếu thân tôn sư” mà làm, khởi xướng lên và làm người dẫn đầu, làm người mô phạm cho người khác xem. Đây là thân giáo, là hoằng pháp lợi sanh, khuyên bảo tất cả mọi người, mang đến cho họ nhiều lợi ích.

Ngày nay chúng ta muốn khai phát tánh đức, minh tâm kiến tánh. Dùng phương pháp gì? Dùng “hiếu kính”. Cho nên, đem tấm lòng cha mẹ trải rộng ra thành hiếu thuận tất cả chúng sanh, đem tấm lòng kính ngưỡng sư trưởng trải rộng ra thành kính ngưỡng tất cả chúng sanh thì sẽ được minh tâm kiến tánh. Từ phân biệt, tu đến khi không còn phân biệt. Tôi “hiếu thân tôn sư” là có phân biệt, sau khi trải rộng thì không còn phân biệt. Đến khi nào không còn phân biệt thì tánh đức sẽ hiển lộ ra, đó là minh tâm kiến tánh. Đây phải cố gắng, chăm chỉ mà làm, cho nên, học theo A Di Đà Phật quyết định không sai."

Trích từ quyển "Niệm Phật Thành Phật" do cư sĩ Diệu Âm biên soạn và trích lục khai thị quan trọng của pháp sư Tịnh Không.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

18/11/2023

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

CHUYỂN PHIỀN NÃO THÀNH BỒ ĐỀ, CHUYỂN SANH TỬ THÀNH NIẾT BÀN.

Mục đích của việc học Phật là nhằm lìa khổ được vui, nếu chúng ta chẳng thể chuyển cảnh giới thì vĩnh viễn phải chịu khổ, chịu nạn. Có chẳng ít bạn đồng tu học Phật rất gian khổ, càng khổ hơn lúc chưa học Phật trước kia, nguyên nhân là vì họ chẳng hiểu lý luận của việc học Phật, tu chẳng đúng như lý, như pháp. Tu học Phật pháp tức là chuyển biến cảnh giới, làm thế nào biến bần cùng thành phú quý, chuyển hỗn loạn thành an định, nếu chẳng hiểu đạo lý và phương pháp thì chẳng thể chuyển được. Nếu biết được đạo lý, biết phương pháp, tu học đúng như lý như Pháp thì tự nhiên sẽ chuyển biến cảnh giới được. Phật pháp thường nói: “Chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển sanh tử thành Niết Bàn”. Chúng ta ứng dụng trong đời sống, không có một cảnh giới nào chẳng thể chuyển. Nguyên tắc chung, đạo lý lớn lao này chính là: “Y báo chánh báo trang nghiêm, duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”.

Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật nói: “Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh”. Cho nên tâm chúng ta phải thường tưởng đến chuyện thiện, đừng tưởng chuyện ác. Lợi ích chúng sanh, lợi ích cho xã hội là thiện; lợi ích cho chính mình, cho gia đình mình, cho đoàn thể nhỏ của mình là ác. Tại sao vậy? Niệm niệm đều vì tự mình và cái vòng tròn vây quanh mình, đó là phân biệt, chấp trước; đã biến Nhất Chân pháp giới vốn có thành Thập pháp giới, biến thành lục đạo luân hồi, biến thành tình hình hiện nay! Chúng ta muốn thoát ra ngoài cảnh khốn khổ này thì chỉ có thể giải quyết nơi tâm lượng. Niệm niệm đều vì hư không pháp giới, chẳng nghĩ tưởng cho cái đoàn thể nhỏ của mình thì chấp trước sẽ bị phá tan; niệm niệm đều vì Hư Không pháp giới, vì hết thảy chúng sanh thì phân biệt sẽ bị phá trừ. Khi hết chấp trước thì lục đạo sẽ chẳng còn nữa, sẽ khôi phục lại Nhất Chân Pháp giới. Nhất Chân Pháp Giới là vũ trụ sanh thái tự nhiên, sanh thái tốt đẹp nhất. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước phá hoại sanh thái tự nhiên. Đến lúc phân biệt và chấp trước vô cùng nghiêm trọng thì hoàn cảnh sanh thái của địa cầu chúng ta sẽ bị phá hoại; khí hậu toàn thế giới sẽ chẳng bình thường, chúng sanh đều chẳng có cảm giác an toàn. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là căn nguyên của việc phá hoại sanh thái tự nhiên. Chỉ có Phật pháp Đại Thừa giải thích việc này rõ ràng, thấu triệt nhất.

Thế nên, chúng ta đọc kinh Phật nên biết được những chân tướng sự thật này, quan sát kỹ càng hoàn cảnh của chúng ta mới biết câu nào của Phật nói đều là chân lý, câu nào cũng là lời chân thật. Chỉ cần chúng ta hết lòng nổ lực học tập thì nhất định có thể sáng tạo tương lai tốt đẹp cho tất cả mọi người.

Trích từ sách “HỌC VI NHÂN SƯ, HÀNH VI THẾ PHẠM” do ÂN SƯ THƯỢNG TỊNH HẠ KHÔNG giảng giải.

XIN THƯỜNG NIỆM A DI ĐÀ PHẬT.

Photos from Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú's post 18/11/2023

Nam Mô A Di Đà Phật!

Đây là ảnh của một cô Phật tử đến đảnh lễ tháp tổ chùa Viên Minh (xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, TP.Hà Nội) khi cây bún (hoa chùa) do nhóm cúng dàng vẫn đang nở hoa báo ân Phật, Tổ. Chia sẻ tới mọi người tùy hỷ công đức!

Nguyện những ai thấy cây, hoa, ngửi hương, thưởng thức vị từ cây hoa chùa đều khởi lòng kính lễ, phát tâm Bồ Đề, niệm Phật cầu sinh Tây phương Cực Lạc và sớm được Phật A Di Đà tiếp dẫn!

Nam Mô A Di Đà Phật!

18/11/2023

PHẢI DỐC KIỆT LÒNG THÀNH MỚI ĐẠT ĐƯỢC LỢI ÍCH THẬT SỰ.

Ngạn ngữ có câu: “Chẳng hạ mình thật sâu trước người khác, chẳng đạt được lẽ thật”. Lời này tuy nhỏ, nhưng có thể ví cho điều lớn lao. Phàm trong thế gian, lớn như kinh thuật, văn chương; nhỏ như một tài, một nghệ, nếu muốn thâm nhập diệu nghĩa đến mức thần tình, muốn được cốt tủy nơi đạo truyền tân, tài nghệ xuất chúng, danh truyền cổ kim, nếu chẳng chuyên tâm dốc ý, kiệt lòng thành, tận lòng kính, sẽ chẳng thể nào đạt được! Vì vậy, sách Quản Tử có câu: “Hãy suy nghĩ đi, hãy suy nghĩ đi, lại suy nghĩ chín chắn đi. Nghĩ không ra thì quỷ thần sẽ tương thông”. Không phải là quỷ thần tương thông mà chính là do lòng tinh thành đến cùng cực vậy!
Đời Hán, Ngụy Chiêu gặp Quách Lâm Tông, cho rằng thầy dạy kinh sách dễ gặp, thầy dạy làm người khó gặp, bèn xin theo học, hầu hạ, quét tước. Lâm Tông thường hay bị bệnh, sai Chiêu nấu cháo. Cháo nấu xong, dâng lên, Lâm Tông mắng ầm ĩ: “Vì người trên nấu cháo chẳng để lòng kính cẩn làm, nên không ăn được!” Chiêu lại nấu cháo khác, dâng lên, lại mắng như thế ba lượt, mặt ông Chiêu vẫn không đổi sắc. Lâm Tông nói: “Thoạt đầu ta thấy được mặt ông, nay ta mới biết được tâm ông”. Đời Tống, Dương Thời và Du Thố thờ [Trình] Y Xuyên làm thầy. Một bữa học hỏi đã lâu, Y Xuyên chợt nhắm mắt vờ ngủ, hai người học trò đứng hầu chẳng dám bỏ đi. Lúc lâu sau, Y Xuyên chợt tỉnh giấc nói: “Các trò vẫn còn ở đây à? Về nghỉ đi!” Bèn lui ra, ngoài cửa tuyết xuống đã dầy hơn cả thước. Trương Cửu Thành, mười bốn tuổi sang chơi Quần Tường, suốt ngày đóng cửa, không có chuyện gì thì chẳng vượt ra ngoài giới hạn ấy. Người học trò ở bên cạnh xoi lỗ nhìn sang, thấy chàng ta ôm gối quỳ sát, đối trước thi thư như đối diện thần minh, bèn kính phục như trò đối với thầy. Bốn vị trên đây, những gì họ học chính là đạo “minh đức tân dân” của thế gian, là pháp “tu tề trị bình”, mà họ còn tôn sư trọng đạo chí thành như thế, cho nên học được thành, đức được lập, khiến cho khi còn sống cũng như sau khi đã khuất, người đời ngưỡng mộ không thôi! Còn như Dịch Thu dạy cờ vây cũng chỉ do chuyên tâm dốc chí cho nên giỏi giang, như [ông lão] khom lưng đón ve, do dụng chí chẳng phân nên đạt được như vậy.
Do vậy, thấy rằng: Sự học không phân lớn hay nhỏ, đều phải lấy thành kính làm chủ. Huống nữa, Như Lai trong bao kiếp xưa, muốn khiến cho chúng sanh đồng thành giác đạo, nếu không gieo duyên, sẽ không do đâu đắc độ! Do vậy, Phật bèn hiện đủ mọi sắc thân hiện hình trong sáu nẻo, đủ mọi phương tiện tùy cơ lợi vật, mở ra đủ cả ngàn môn, đồng quy một đạo. Kẻ thiện căn chưa gieo, chưa chín muồi, chưa giải thoát, Phật bèn làm cho kẻ ấy gieo, chín muồi, giải thoát. Nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy để thuyết pháp. Mây bủa cửa Từ, sóng trào biển Hạnh. Lục Độ đều tu, Tứ Nhiếp cùng lợi ích trọn khắp. Đấy là bố thí, trong ngoài đều xả, nghĩa là: quốc thành, vợ con, đầu mắt, tủy não, thịt trên thân, chân tay đều hoan hỷ thí cho. Vì vậy, kinh Pháp Hoa nói: “Xem trong tam thiên đại thiên thế giới, không có chỗ nào chừng bằng hạt cải mà chẳng phải là chỗ Bồ Tát xả thân mạng”.
Như Lai vì chúng sanh nên trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp rộng hành Lục Độ, để kết khắp duyên chủng. Đợi đến lúc căn cơ chín muồi, rồi Ngài mới thị hiện thành Chánh Giác, hoằng khai pháp hội, phổ ứng quần cơ. Với bậc thượng căn bèn hiển thị Thật Tướng khiến họ sanh lên được bờ đạo. Với trung hạ căn bèn khéo léo tiếp dẫn, un đúc dần dần, Hiển, Mật, Quyền, Thật, Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, tùy theo căn cơ xếp đặt, nên dùng pháp nào bèn dùng pháp đó. Tuy có ba thừa, nhưng đạo vốn không hai. Vì Thật lập Quyền, Quyền là Quyền đối với Thật; khai Quyền hiển Thật, Thật là Thật đối với Quyền. Thuận theo căn cơ, khéo léo khuyến dụ dần dần, khiến cho cả lý lẫn cơ đều khế hợp thì giải cùng hạnh mới được viên mãn. Dù người học chuyên chú Đại Thừa, cũng chẳng được khinh miệt, vứt bỏ Tiểu Thừa, bởi Tiểu Thừa chính là pháp được lập ra để [người học] tiến nhập Đại Thừa, là diệu dụng độ sanh của Như Lai, quả thật là phương kế rộng lớn để cho hàng hạ căn thoát khổ.
Vì thế, kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Người học đạo Phật thì đối với những gì Phật đã nói đều phải nên tin thuận. Ví như ăn mật, dù ở chính giữa hay chung quanh đều ngọt ngào, kinh của ta cũng giống như thế. Biển cả tuy có chỗ cạn, chỗ sâu, nhưng nước vốn chẳng hai vị”. Phàm những gì thuộc về kinh Phật đều phải nhất loạt tôn kính, như mạng lệnh của Luân Vương, dẫu đủ mọi chuyện khác nhau, nhưng đều cùng từ vua sắc truyền. Người viên đốn lãnh thọ pháp thì không pháp nào chẳng viên. Những lời cư xử trong cõi đời, những nghề nghiệp để nuôi sống v.v… đều thuận theo chánh pháp, huống chi những pháp như Sanh Diệt, Vô Sanh, Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên v.v… do chính kim khẩu Như Lai nói ra. Đến khi một kỳ sự nghiệp của Như Lai đã xong, Phật bèn thị hiện diệt độ. Các đại đệ tử Ca Diếp, A Nan… kết tập pháp tạng lưu thông khắp pháp giới. Một ngàn năm sau, giáo pháp truyền sang cõi này. Cao tăng hai cõi, sang Đông, qua Tây, phiên dịch, lưu truyền kinh Phật, chẳng tiếc thân mạng. Đọc truyện các vị Pháp Hiển, Đàm Vô Kiệt, Huyền Trang v.v… thấy đường lối hiểm trở, vô cùng gian nan, khó nhọc, bất giác nghẹn ngào, ứa lệ không sao thôi được.
Kinh dạy: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Nếu không có nhân duyên kiếp xưa thì danh hiệu kinh Phật còn chẳng được nghe, huống chi là được thọ trì, đọc tụng, tu nhân, chứng quả ư? Những gì đức Như Lai đã nói đều y theo lý vốn sẵn có trong tâm chúng sanh, ngoài tâm tánh trọn chẳng có một pháp nào để đạt được cả. Chỉ vì chúng sanh đang mê nên chẳng thể hiểu rõ, trong Chân Như Thật Tướng bèn huyễn sanh vọng tưởng, chấp trước. Do vậy, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, mê trí huệ nên thành phiền não, ngay nơi thường trụ bèn thành sanh diệt, trải trần điểm kiếp, không thể thoát được. May gặp được những kinh Đại Thừa hiển - mật do đức Như Lai đã nói, mới biết hạt châu vẫn y nguyên nơi chéo áo, Phật tánh vẫn tồn tại. Tự coi mình là khách, là kẻ hạ tiện, nhưng vốn thật là con ông trưởng giả. Trời - người sáu nẻo chẳng phải là chỗ mình ở; Thật Báo, Tịch Quang mới là quê nhà sẵn có. Nghĩ lại từ vô thủy đến bây giờ, chưa nghe lời Phật nên dù sẵn có tâm tánh này, vô cớ bị luân hồi oan uổng! Thật là đáng đau đớn khóc than, tiếng rền đại thiên, tim từng miếng xé toạc, ruột từng tấc đứt lìa. Ân ấy, đức ấy quả còn hơn trời đất, cha mẹ gấp trăm ngàn vạn lần. Dẫu nghiền thân nát xương, há có thể báo đền được! Chỉ có y theo lời dạy tu hành, tự hành, hóa độ người khác thì cỏ Xuân mới đền đáp được ân nắng soi chút phần, hoa quỳ mùa Hạ hướng theo ánh mặt trời mà thôi. Nhưng hiện thời Tăng - tục mở xem kinh sách, trọn chẳng thành kính tí ti nào. Đủ mọi điều khinh nhờn, khó thể nêu trọn; nhưng tập thành thói đã lâu, ai nấy coi là thường, hình tích khinh nhờn đó không nỡ nêu đủ. Xem pháp ngôn của Như Lai giống như giấy cũ rách nát! Đừng nói chi những kẻ không biết chỉ thú nên trọn chẳng được lợi ích; ngay cả những người biết thật nghĩa sâu xa cũng chỉ là tam-muội đằng miệng, tỏa sáng ngoài mặt. Như đang đói kể chuyện ăn, như nghèo cùng đếm của báu, dù có công nghiên cứu, nhưng trọn chẳng được lợi ích thật chứng. Huống chi cái tội khinh nhờn quả thật ngập trời, thời gian thọ khổ há nào phải chỉ hết kiếp? Tuy là nhân lành, nhưng lại chuốc lấy quả ác. Dẫu thành cái nhân đắc độ cho tương lai, khó tránh khỏi nhiều kiếp chịu đủ mọi bề khổ sở.
Dùng cái tâm ôm nỗi thảm thương dám bày tỏ lời quê mùa, mong những ai vâng làm theo lời Phật chỉ được lợi, không bị tổn hại. Kinh Kim Cang dạy: “Nếu kinh điển này ở đâu, chỗ ấy có Phật, phải như đệ tử tôn trọng [Phật]”. Lại dạy: “Nơi nơi, chốn chốn, nếu có kinh này thì hết thảy thế gian trời, người, A Tu La đều phải nên cúng dường. Phải biết chỗ ấy chính là tháp, đều nên cung kính, làm lễ, đi nhiễu, dùng các hương hoa rải lên nơi đó”. Vì sao lại dạy như thế? Do hết thảy chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của hết thảy chư Phật đều từ kinh này mà ra; các kinh Đại Thừa đâu đâu cũng dạy con người phải cung kính kinh điển, chứ không phải chỉ nói một lần rồi thôi! Ấy là vì các kinh Đại Thừa chính là mẹ của chư Phật, là thầy của Bồ Tát, là Pháp Thân xá-lợi của tam thế Như Lai, là thuyền từ thoát khổ của chúng sanh trong chín giới. Dù cao đăng Phật quả vẫn còn phải kính pháp, ngõ hầu báo đáp đến tận gốc, chẳng quên đại ân. Vì thế, kinh Niết Bàn dạy: “Pháp là mẹ của Phật, Phật từ Pháp sanh”.
Tam thế Như Lai đều cúng dường Pháp, huống gì hạng phàm phu sát đất, toàn thân đầy nghiệp lực, như tù phạm tội nặng bị giam cầm lâu ngày trong lao ngục, không cách gì thoát ra được! May sao nhờ vào thiện căn đời trước, được xem kinh Phật, như tù nhân nhận được lệnh tha, mừng rỡ vô ngần! Do vậy, bèn nương theo kinh pháp vái chào tam giới mãi mãi, thoát khỏi lao ngục sanh tử vĩnh viễn, đích thân chứng Tam Thân, về thẳng quê nhà Niết Bàn. Vô biên lợi ích do nghe kinh bèn đạt được, há có nên dựa theo tri kiến cuồng vọng chẳng giữ lòng kính sợ, giống như nhà Nho đọc sách trong cõi tục, buông tuồng khinh nhờn ư? Đã đọc kinh Phật, sao không nương theo những gì kinh Phật dạy mà cung kính, tôn trọng? Đã khinh nhờn Phật pháp, há có thể đạt được tất cả những lợi ích chân thật nơi Phật pháp ư? Nếu có thể tạm dứt những kiến giải cuồng vọng, đêm thanh tự nghĩ, tâm thần ắt sẽ kinh hoàng, thẹn thùng, nước mắt ràn rụa, buồn cho ngày trước vô tri, thề suốt đời sẽ dốc kiệt lòng thành. Từ ấy, tâm ý nghiêm túc, cung kính, thân miệng thanh tịnh, vĩnh viễn dứt sạch tâm thái xấu xa thô lậu, luôn y theo khuôn phép thánh hiền của kinh luận.
Nếu làm được như thế ắt sẽ ở trong biển cả Phật pháp, tùy phần, tùy sức đạt được lợi ích. Như Tu La, hương tượng và các loài muỗi mòng, uống nước biển cả, [loài nào loài nấy] đều được no bụng. Lại như một trận mưa thấm ướt khắp, cây cỏ đều tươi tốt. Như thế thì cái công thọ trì của chính mình mới chẳng uổng phí, mà tâm Như Lai giảng kinh, tâm hoằng pháp của chư Tổ cũng được vui đẹp, an ủi, sung sướng phần nào! Nay đem những sự tích lợi ích do cung kính kinh điển của chư cổ đức chép đại lược vài điều, ngõ hầu những người chân tu thật hành có cái để noi theo:
1) Vị Tăng tên Đức Viên đời Tề, không biết thuộc tộc họ nào, người xứ Thiên Thủy, thường lấy kinh Hoa Nghiêm làm sự nghiệp, thọ trì, đọc tụng nắm vững chỗ yếu diệu đến cùng cực. Sư sửa dọn một khu vườn sạch, trồng toàn cây cốc chử và trồng cỏ thơm, trồng xen lẫn các loại hoa tươi. Mỗi lần vào vườn, đều tắm rửa, thân mặc áo sạch. Tưới bằng nước thơm, cây dó mọc được ba năm, mùi thơm sực nức. Lại tạo riêng tịnh thất, dùng chất bùn thơm tô vách, trát đất, kết đàn, bày đồ vật tinh sạch, tắm gội. Nhà tắm có để sẵn áo dành riêng cho khi đi vệ sinh. Thợ đều phải trai giới, ra vào đều phải thay áo, súc miệng cho thơm tho. Lột vỏ cây dó, ngâm trong nước trầm cho sạch để làm giấy. Cả năm mới làm xong. Bèn đắp riêng một cái nền sạch, lại cất một ngôi thất mới. [Từ đầu] cho đến khi bắc kèo, lợp ngói, tắm rửa đều dùng nước thơm, mỗi việc đều nghiêm khiết. Trong nhà, đặt một tòa vuông bằng gỗ bách khảm ngà, chung quanh xếp hương hoa, phía trên treo lọng báu, treo các thứ ngọc có tiếng thanh tao, kết xen lẫn thành tua rủ xuống chung quanh. Dùng gỗ bạch đàn và tử trầm làm án kinh và quản bút. Người chép kinh hằng ngày giữ trai giới, tắm gội bằng nước thơm ba lần, đội mão hoa, mặc áo sạch, chưng diện như người cõi trời.
Lúc vào kinh thất, bèn đốt hương hai bên đường, có người xướng tụng dẫn đường đằng trước. Đức Viên cũng ăn mặc theo hình thức nghiêm tịnh như thế, cầm lư hương cung kính dẫn đường. Rải hoa cúng dường rồi mới biên chép. Đức Viên hồ quỳ, vận tưởng, mắt nhìn chăm chú, dốc lòng. Vừa chép được mấy hàng, mỗi chữ đều phóng quang, chiếu khắp cả viện, mọi người đều thấy, không ai chẳng bi cảm, một lúc lâu sau mới hết. Lại có thần nhân cầm giáo hiện hình hộ vệ, Đức Viên và người chép kinh đều thấy, người khác không thấy được! Lại có phạm đồng áo xanh, không biết từ đâu đến, tay cầm hoa trời, chợt dâng lên cúng dường. Những chuyện linh cảm trước sau đều giống như vậy. Phải mất hai năm, mới chép xong kinh. Đựng trong hộp thơm, đặt trong trướng báu, cất trong tịnh đường. Mỗi lần đều đảnh lễ rồi mới chuyển đọc, hộp tỏa ra ánh sáng lạ. Nghiêm khiết đến thế, kính trọng tuyệt cổ siêu kim. Bộ kinh này được trao truyền đến nay qua năm đời (Ngũ Đại), có ai thanh tịnh chuyển đọc thì cũng có lúc hiện sự linh ứng rõ rệt như vậy. Bộ kinh ấy nay được thủ hộ cúng dường ở chỗ pháp sư Hiền Thủ chùa Tây Thái Nguyên.
Chú thích: Chuyện này và hai chuyện tiếp theo đều là nói về bản Lục Thập Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm bản dịch gồm sáu mươi quyển) được dịch vào đời Tấn. Chữ Cốc 穀 đọc như chữ Cốc 谷, thân mộc chứ không phải thân thảo, là một loài khác của giống cây Chử 楮 (cây dó). Đức Viên trồng cây dó để làm giấy chép kinh. Vào trong vườn trồng cây dó này mà còn phải tắm gội, mặc y phục sạch sẽ. Do đây biết rằng: Hằng ngày Sư lễ Phật tụng kinh, thành kính, tịnh khiết [đến mực nào!] Người thời nay lên Đại Hùng bảo điện còn chẳng được kiền thành, thanh khiết như sư Đức Viên vào vườn trồng cây dó. Thật đáng cảm khái, than thở! [Trong câu “mộc cụ tân y” (dịch theo ý là “tắm rửa, vào chỗ bẩn đều thay áo mới”)], thì “mộc” là “mộc thất” (nhà tắm), còn “tân” nên đọc là “xúc” (dơ bẩn), ý nói: Trong nhà tắm có áo để mặc riêng khi vào nhà cầu. Câu “tượng nhân trai giới, dịch phục xuất nhập” nghĩa là những người thợ được dùng ở đây đều phải trì Ngũ Giới, hằng ngày thọ pháp Bát Quan Trai. Phàm muốn đi vệ sinh, phải đến chỗ nhà tắm, cởi bỏ thường phục, mặc áo dành riêng cho nhà vệ sinh. Khi đi ra, phải tắm gội sạch rồi mới được mặc lại thường phục.
“Tuyền tô” là những cái tua: Dùng những sợi tơ, đầu thắt lại, cho rủ xuống. “Bái” tức là “xướng tán”. Ngũ Đại là Tề, Lương, Trần, Tùy, Đường. Truyện này do người đời Đường soạn, nên ghi là “cho đến nay là năm đời”. Lòng thành của Đức Viên siêu việt cổ kim, nên mới linh ứng nhiều điều như thế. Người đời nay dù không tài lực, nhưng với những chuyện sức mình làm được, há chẳng nên dốc kiệt lòng thành, vét tận lòng kính để mong Tam Bảo rủ lòng từ, gia bị thầm kín hay rõ ràng ư? Nếu chỉ chuộng bề ngoài, trọn chẳng thành kính, sẽ không cách gì cảm thông được pháp lực vô biên, bèn cho là Phật pháp không linh, há có được ư? Chuyện này sao lục từ bộ Hoa Nghiêm Huyền Đàm và dung hội hai bộ Huyền Ký.
2) Vị tăng Tu Đức ở Trung Sơn, Định Châu vào đời Đường, không biết họ tên, khổ hạnh, tiết tháo thành tánh, tu hành nơi rừng núi. Kết nghiệp an tâm nơi kinh Hoa Nghiêm và luận Khởi Tín. Năm Vĩnh Huy thứ tư (653), phát tâm sao chép. Vì thế, lập riêng một tịnh viện, trồng cây dó, trồng kèm các loại hoa thơm. Tưới bằng nước thơm, ba năm sau, tịnh khiết làm thành giấy. Lại cất riêng một cái đài thanh tịnh, dựng nhà trên đó. Mời người viết chữ đẹp ở Vi Châu là Vương Cung, trai giới nơi biệt viện, tắm gội, mặc áo sạch, thắp hương, rải hoa, treo các loại phan lọng, lễ kinh sám hối rồi mới lên tòa viết. Hạ bút xuống bèn ngậm hương, nhấc bút lên mới thở ra. Mỗi ngày đều như thế. Sư Tu Đức vào tịnh thất, vận tưởng. Mỗi lần chép xong một quyển bèn tặng mười xấp lụa mịn, một bộ tặng tổng cộng sáu trăm tấm lụa mịn. Ông Cung dốc kiệt lòng chí thành, đều chẳng nhận lấy; vừa chép xong kinh, liền mất ngay. Do kinh đã hoàn thành, Tu Đức bèn mở trai hội ăn mừng. Đại chúng nhóm đến, Tu Đức đối trước Phật, đốt hương, rải hoa, phát hoằng thệ nguyện, rồi mới mở hộp đựng kinh, tỏa ra quang minh lớn, chiếu khắp hơn bảy mươi dặm, chiếu đến tận thành Định Châu. Dân chúng trong thành đều thấy. Đại chúng đến dự trai hội tại Trung Sơn đều gieo thân phủ phục, nghẹn ngào khóc lóc sám hối.
Chú thích: Truyện này gần giống với sự tích ở phần trước. Đủ thấy cổ nhân đối với Tam Bảo đều kiệt thành tận kính, hoàn toàn chẳng như người bây giờ coi thường, khinh nhờn, hữu danh vô thực! “Nâng bút, thở ra” có nghĩa là muốn ho hắng, hoặc muốn ngáp, đều ngừng bút một chút, mặt hướng sang phía bên cạnh, thở hơi ra, chẳng dám để hơi thở xông vào kinh. “Vừa chép kinh xong, ngay lập tức bèn mất” nghĩa là do chuyên tâm chép kinh, chẳng cầu danh lợi, chí thành đến cùng cực, đến nỗi nghiệp tận tình không, liễu sanh thoát tử, cao đăng sen báu thượng phẩm, tự chứng địa vị Bất Thoái. Xem đây có thể biết Phật pháp chẳng cô phụ con người, nhưng Tăng, tục thời nay đa phần đều cô phụ Phật pháp. Biết làm sao được! Chuyện này gộp từ hai sách Huyền Ký.
3) Sư Pháp Thành đời Đường, họ Phan, người huyện Vạn Niên thuộc Ung Châu, xuất gia từ nhỏ, lấy việc tụng Hoa Nghiêm làm sự nghiệp. Do gặp Huệ Siêu thiền sư ẩn cư trong ngọn núi cao Lam Cốc, bèn vứt bỏ phiền hoặc, dốc lòng thành cầu học. Về sau, Sư tạo Hoa Nghiêm đường ở ngọn núi phía Nam chùa, trong ngoài đều trong sạch. Trang nghiêm xong xuôi, bèn vẽ cảnh bảy xứ chín hội. Lại dốc cạn lòng chí thành tinh chuyên, biên chép, thọ trì. Hoằng Văn học sĩ Trương Tịnh, là người chữ đẹp nổi tiếng tài hoa hãn hữu khi ấy. Sư bèn thỉnh đến sơn xá, bảo hãy thọ trai giới, khiết tịnh tự tu. Miệng ngậm nước thơm, thân mặc áo sạch. Trương Tịnh chép kinh lâu ngày, mỗi trang giấy đòi giá năm mươi đồng. Sư Pháp Thành liệu trước, vừa chép hai trang, đã ứng trước năm trăm. Trương Tịnh được lợi, dốc sức chép. Cho đến hết bộ kinh, Pháp Thành hằng ngày đều thiêu hương cúng dường trước án. Trong khi vẽ vời, tâm duyên theo, mắt nhìn chăm chú, trọn chẳng sót chút nào. Do dốc lòng chăm chú, khi đó cảm được con chim lạ, hình sắc hiếm có trong đời, bay vào trong nhà, bay quanh quẩn cổ vũ, đáp xuống án kinh, rồi lại đậu lên lư hương, lặng lẽ đứng nhìn, tự nhiên như thân quen, một hồi lâu sau bay đi.
Năm sau, kinh chép xong, sắp sửa ăn mừng, chim lại bay tới, lẩn quẩn như trước, hót tiếng thánh thót. Năm đầu niên hiệu Trinh Quán (627), Sư vẽ hình ngàn vị Phật, chim lại bay tới, đậu trên lưng người thợ. Sau Sư mở trai hội, cúng mừng các kinh tượng. Trong ngày hôm ấy, Sư lấy làm lạ không thấy chim đến, nhìn lên đỉnh núi nói: “Chim đã không đến, ta thật không cảm [được chim]. Phải chăng hiềm vì có các uế hạnh nên mới có điềm này?” Nói xong, chim đột nhiên bay đến chao lượn kêu hót, đậu vào trong nước thơm, nhảy nhót tắm gội, rồi lại bay đi. Trước sau đều như thế, không cần phải nhắc lại. Trương Tịnh khéo tài bút mực, nên được trong làng đề cử, các bài kinh kệ được khắc trên vách núi bên đường đều do ông ta viết. Ông chép Pháp Hoa ở ngay nơi đất trống. Nhân có chuyện phải đi nơi khác, chưa kịp đem cất. Mưa to như trút, khe, suối đều ngập tràn. Chạy đến xem thấy cả án kinh đều khô ráo, còn những thứ khác đều ướt đẫm. Ông từng tựa vào cây tùng mọc ngang, bị té xuống dòng suối chảy xiết, chưa trôi đến khe nước bên dưới, bất giác đã lên được bờ cao, chẳng tổn hại một mảy lông.
Trich: ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO - TĂNG QUẢNG CHÁNH BIÊN, Quyển thứ hai (Phần 4)

15/11/2023

THẾ GIỚI NÀY DÙ CÓ LOẠN THẾ NÀO, TA CŨNG KHÔNG LOẠN. TAI NẠN KHÔNG THỂ TRÁNH ĐƯỢC, TAI NẠN ĐẾN RỒI, NGƯỜI NIỆM PHẬT CHÚNG TA Ở NGAY TRONG TAI NẠN VÃNG SANH LÀ VIỆC TỐT, KHÔNG PHẢI VIỆC XẤU.

Vì sao phải nghe kinh? Không nghe kinh thì là nghĩ tưởng xằng bậy, không nghe kinh thì tâm không thể định, nghe kinh là phương pháp tu định. Nếu như mỗi ngày bạn có thể nghe được tám giờ đồng hồ, thì bạn tu được tám giờ định. Định huệ đều học. Khi nghe kinh không khởi vọng niệm là tu định. Nghe được rất tường tận, nghe được rất thông suốt, đó là tu huệ. Định huệ đều học, giới tự nhiên ở ngay trong đó, vì sao vậy? Bạn sẽ không khởi ác niệm, bạn không thể có ác niệm ác hạnh đối với người khác, cho nên phương pháp này là giới-định-huệ tam học một lần đầy đủ.

Bạn mỗi ngày có thể nghe kinh được tám giờ, sáng sớm niệm Phật được hai giờ, buổi tối niệm Phật được hai giờ, một ngày 12 giờ suốt cả năm không hề gián đoạn, theo tôi nghĩ hai ba năm thì bạn được Niệm Phật Tam Muội. Niệm Phật Tam Muội là gì? Công phu thành khối, điều kiện vãng sanh liền đầy đủ. Nếu như cách tu không phải như vậy thì không thể nắm phần vãng sanh.

Trên thế giới này loạn thì mặc cho nó loạn, Phật cũng còn không có cách gì, chúng ta có năng lực gì để giúp chứ? Cho nên ở trong những năm này, cứu chính mình là quan trọng. Lão cư sĩ Lý Bĩnh Nam ngày đầu vãng sanh, lúc đó tôi giảng kinh ở Cảnh Mỹ, hơn 5 giờ sáng thì thầy vãng sanh. Đồng tu Đài Trung gọi điện cho tôi nói lão sư vãng sanh, buổi chiều hôm trước một ngày thầy vãng sanh, thầy nói với mấy đồng tu ở bên cạnh mấy câu, di giáo sau cùng là “thế giới này loạn, Phật Bồ Tát thần tiên hạ phàm cũng không cứu được, chúng ta chỉ có một đường sanh lộ, chính là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ”. Di ngôn sau cùng của lão sư Ngài, chúng ta phải ghi nhớ, chúng ta phải tin tưởng, y giáo phụng hành.



Thế giới này dù có loạn thế nào, ta cũng không loạn. Tai nạn không thể tránh được, tai nạn đến rồi, người niệm Phật chúng ta ở ngay trong tai nạn vãng sanh là việc tốt, không phải việc xấu. Người chết ngay trong tai nạn, có người đi đến thế giới Cực Lạc, có người đi đến cõi trời, có người đổi cái thân này lại trở lại, họ lại đầu thai, lại trở lại, có một số người đến ba đường ác. Cũng đồng là chết ngay trong tai nạn, nhưng chỗ đi không như nhau, cho nên không lo lắng, không khiếp sợ, tâm luôn là an định không nên bị cảnh giới xoay chuyển. Nơi chúng ta đi thì tốt rồi, nếu như tai nạn đến rồi, kinh hoàng, lo lắng, khiếp sợ, vậy thì khẳng định đến ba đường ác. Chính họ không làm chủ được nên đã bị cảnh giới chuyển. Cho nên hiện tại chúng ta ở thế gian này, sống một ngày tính một ngày, không nên nghĩ còn có năm tới. Tôi ngay đến ngày mai cũng không nghĩ. Như vậy chúng ta mới tự tại! Nghĩ đến ngày mai làm gì? Ngay mai vẫn chưa đến, hôm nay có được thời gian của một ngày, cố gắng niệm một ngày Phật, tụng một ngày kinh, bạn nói xem, thật nhiều tự tại. Đó chính là người đại phước đức, đó chính là người đại tự tại.

Không nên nhiều chuyện, hễ người nhiều chuyện thì họ sẽ tự tìm lấy phiền não. Vạn duyên buông bỏ, người khác tranh danh đoạt lợi, chúng ta danh vọng lợi dưỡng thảy đều buông bỏ. Đó là gì vậy? Đó đều là làm chuyện sáu cõi ba đường, đó là việc của họ, chúng ta buông bỏ rồi, không làm việc đó nữa, chúng ta đến thế giới Tây Phương Cực Lạc để làm Bồ Tát, để làm Phật. Phải có nhận biết như vậy thì tốt, vạn nhất không nên để lỡ cơ duyên tốt lớn như vậy. Có tai nạn này là cơ duyên tốt lớn, vì sao vậy? Ép chúng ta không dụng công không được. Nếu không dụng công thì đi vào ba đường. Bạn từ góc độ này mà nhìn là một việc tốt, không phải việc xấu. Không có tai nạn thì người giải đãi, không cần lo, còn có năm tới, còn có năm tới nữa, vĩnh viễn giải đãi lười biếng, công phu không đắc lực. Hiện tại tai nạn ép bức bạn, không làm không được, phải liều mạng mà làm, vậy mới có thành tựu. Trên kinh, Phật có hai câu nói “nhật nhật thị hảo nhật, thời thời thị hảo thời”. Hai câu này đúng, một chút cũng không sai.

Tôi những năm qua giảng kinh đã có thêm được hai câu, “nhân nhân thị hảo nhân, sự sự thị hảo sư”. Thiên tai nhân hoạ đều là việc tốt, không có việc nào không là việc tốt, người thiện người ác đều là người tốt, nhất là người ác. Người ác là gì? Thành tựu ta nhẫn nhục Ba La Mật, xem ta có thể nhẫn hay không. Có thể nhẫn thì đạo nghiệp nâng lên cao, không thể nhẫn thì đọa lạc. Có thể nhẫn thì chúng ta từ phàm phu thăng cấp đến Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát có thể nhẫn, không thể nhẫn thì thế nào? Thì kết oán thù với đối phương. Oán thù này vừa kết thì đời đời kiếp kiếp không thể ngừng dứt, bạn nói xem, đó không phải tự tìm phiền não hay sao? Cho nên người xấu đó rốt cuộc là tốt hay không tốt? Chúng ta có thể nhẫn thì họ là người tốt, họ thành tựu nhẫn nhục Ba La Mật cho ta, họ giúp ta nâng lên cao. Nếu ta không thể nhẫn thì họ là người xấu, họ là oan gia trái chủ của ta, đời sau ta báo thù họ. Cho nên bên ngoài không có người tốt người xấu, người tốt người xấu ở chính nội tâm chính mình. Tâm của ta tốt thì họ đều là người tốt, tâm của ta không tốt thì toàn là người xấu. Đó là đại sư Ngẫu Ích nói, cảnh duyên không tốt xấu. Cảnh chính là người bên ngoài, duyên là hoàn cảnh vật chất. Hoàn cảnh vật chất cùng hoàn cảnh nhân sự không có tốt xấu, là bình đẳng. Tốt xấu là do đâu vậy? Tốt xấu do tâm của chính mình. Tâm của chính mình tốt thì không có thứ gì không tốt, tâm của chính mình không tốt thì không có thứ gì tốt cả.

Thế giới Cực Lạc sở dĩ đẹp đến như vậy cũng không gì khác hơn là vì tâm của mỗi một người ở nơi đó đều tốt, cho nên cảm được y chánh trang nghiêm không gì bằng...

Cẩn trích từ bài giảng “KHAI THỊ CHO ĐỒNG TU TỊNH TÔNG”Người giảng: Lão Hoà thượng Tịnh Không Địa điểm: Học Hội Tịnh Tông Hoa Tạng Thời gian: ngày 17 tháng 11 năm 2008

Want your school to be the top-listed School/college?