02/01/2024
MẸO NẮM-CHẮC TIẾNG-VIỆT: ĐƠN-ÂM-TIẾT
---
Theo con cảm nhận: Hiểu biết của Đồng Bào về Tiếng-Việt đã lệch lạc, rối nùi, sai lầm quá thể.
Con xin khoanh tay, cúi đầu, nhìn-thẳng thưa chuyện với các vị Trưởng Trượng, Thầy Cô và Bạn-hiền gần-xa.
Theo nền-nếp Dân Tộc, Người Nhỏ phải “khoanh tay, cúi đầu, nhìn thẳng” khi thưa-gởi với Người Lớn; khi lớn, có sức gánh vác, phải cung kính “vòng tay” (tay phải nắm chắc, tay trái ôm-lấy nắm đấm tay phải, vừa ‘che đi sức mạnh’ biết mình nhỏ bé thấp hèn, vừa ‘phơi bày lòng khô-khát dâng lên’ – máu từ tim không bị chặn lại mà chảy-đi khắp vòng tay, tỏ lòng mong muốn chia-xẻ) thưa chuyện trước Đồng Bào. Con xin phơi-bày Hiểu Biết của mình. Nếu con sai-trái ở đâu, xin trỏ-biểu cho con.
Thứ mà con nói-ra thật quá dễ-nhàn, là hiểu biết Vỡ Lòng và là Nền Tảng Tiếng-Việt-học -, chớ không có gì to lớn. Chính Nhà cách-mệnh Giáo dục Hồ Ngọc Đại, trong Chương trình CNGD Tiếng-Việt đã đưa điều này vào-ngay ‘bài học đầu tiên’ (với những Chữ-Vuông Chữ-Tròn làm xao động lòng người) để các em học trò lớp 1 thấm đậm trong Đầu Óc, nắm chắc ‘từng Tiếng được ghi thành từng Chữ’…
Thế nhưng điều Cốt Lõi này là thứ quá nhỏ bé với Đồng Bào. Như Không-Khí, Đất, hay Nước, là vật-chất khắn-khít với sự-Sống, mà có ‘bao nhiêu người thấu-suốt xâu-sắt điều này’. Với Tiếng-Việt cũng thế: Bổn-Chất, Tiếng-Việt là Ngôn ngữ Đơn-Âm-Tiết, mỗi Tiếng được ghi-Âm thành một-Chữ. Đây là Chìa Khóa, Mẹo hay, điểm Mấu Chốt để nắm bắt Tiếng-Việt, mà Đồng Bào xưa nay ‘mấy ai rõ rành’.
---
Phần 1: SỰ U-BÍ KHI KHÔNG-HIỂU-BIẾT TIẾNG-VIỆT ĐƠN-ÂM-TIẾT
---
Thời nay, từ sau Chương trình CNGD Tiếng-Việt của Thầy Hồ-Ngọc-Đại làm lay-động xã hội Việt Nam năm 2018, Người Việt không ai không biết ‘Tiếng-Việt Đơn-Âm-Tiết’, nhưng trong thang-đo Nhận Thức, Biết là bậc thang thấp nhất – Biết nhưng chưa-chắc đã Rõ, có thể “nắm bắt” nhưng không “nắm chắc”; chỉ cao hơn “Không Biết”, là “Biết mà không Hiểu”.
Con xin thuyên-giải ‘những bậc thang Nhận Thức’ qua Chữ THONG và THÔNG: Quốc-Ngữ THÔNG có cả Chữ-Nôm và Chữ-Nho, Nghĩa tách-rạch qua phép Hình Thanh, là cách tạo-ra Chữ-Vuông gồm hai phần: phần Thanh là phần ghi-Âm và phần Hình là phần Tượng Hình ghi-Ý. Như Chữ-THÔNG có Tự MỘC trỏ “cây thông”, Tự NẠCH Tượng-Hình ‘khung cửa lõng-lay’ có Ý ‘trục trặc, bị bệnh’ trỏ “thông manh” (bệnh đau mắt)… hay Chữ-Nho THÔNG có Tự NHĨ Tượng-Hình ‘lỗ tai’ có Ý ‘nghe rõ’ trỏ “thông minh” (là “nghe cái hiểu liền”).
Nhưng Tiếng “thong” (hay “thông”) có điều Rối-Khắn. Các Chữ-Vuông có Tự SƯỚC Tượng-Hình ‘gót chân’ để nói ‘tung-tâng bay nhảy’, Tự XÍCH Tượng-Hình ‘dấu chân’ để nói 'đi qua xuyên suốt', Tự CHU Tượng Hình ‘con thuyền’ để nói 'trôi xuôi thuận lợi', rành-ràng đều chung Ý ‘buông thả nhẹ-nhàn’, có thể Tượng Ý ‘thấu suốt’. Con cảm thấy các-nhà-văn-xưa theo lối Chữ Vuông, tách rạch các Tự theo Nghĩa, ghi-Âm Quốc Ngữ ra Chữ THONG và THÔNG rất lộn-trộn. Nếu-theo phép Thuần Lý Chung-Riêng, gom các Nghĩa-này thành Ý-chung ‘buông thả nhẹ-nhàn’, Tượng Hình ‘thấu suốt’, từ đó chỉ cần dùng một Chữ THONG thì Tiếng-này sẽ rất trong sáng.
Từ Góc-Nhìn này, khi nói về Nhận Thức, Chữ THÔNG (Chữ-Nho gợi HÌnh 'cái tai') có Nghĩa riêng “nghe hiểu”, còn Chữ THONG gợi Hình Ảnh ‘thấu suốt’, và có thể rõ ràng:
KHÔNG BIẾT là “chưa thong”, Thành Ngữ “dốt đặc cán mai” trỏ ‘đầu óc không thể thong’ vì “điếc đặc”, phơi bày Chữ THONG trái Nghĩa “đặc kín, khích rịt”.
BIẾT là “thông minh” (đã đọc, đã thấy, đã nghe hiểu), khác với “điếc đặc” nhưng cũng khác với “thong-suốt”. Nghe hiểu là biết được nơi tắc nghẽn, rõ ràng chỗ mắc rối, là ‘biết mình’ nhưng ‘không biết chuyện mình gặp phải’, vẫn là “chưa thong”. Biết là một chuyện nhưng Hiểu thì ở mức Nhận Thức cao hơn. Người “thông minh” chỉ mới là người “giỏi học”. Rất nhiều người “biết” nhưng vẫn “chưa hiểu”, là ‘biết mà không hiểu’ nên vẫn sống, làm việc, và đụng chạm với tắc nghẽn, mắc rối. Dân Gian có Thành Ngữ "Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ" để nói về tệ trạng này: "Biết mà chưa Hiểu", "Ướt mà chưa Thấm", "Thấy mà chưa Sợ"...
HIỂU BIẾT là “thong-suốt”, là đã đục phá được nơi tắc nghẽn, tháo gỡ được chỗ mắc rối, tức đã thu hái được hoa trái, nhưng đó là Kiến Thức học đường, Hiểu Biết trường lớp, chưa có trãi-nghiệm, chưa được thành-thạo. Đây chỉ mới ở mức độ “học trò”, là ‘đã-làm nhưng chưa-thành-thạo’.
RÀNH-SỎI là “thong-thạo”, trỏ người chuyên-nghiệp, nhà chuyên-môn, ở trình độ “thợ”, có Kỹ Năng.
Cao hơn Thợ là Thầy. Người thấu-suốt một việc, có thể chuyền-đạt Hiểu Biết cho người-khác, trình độ Kỹ Sư. Và Người-Thầy có đường lối chuyền-đạt, dạy học nhẹ-nhàn, tức có Kỹ năng Sư Phạm, sẽ làm việc “thong thả” – làm nhẹ-nhàn mà thu hái hoa-trái tốt đẹp, tức có Kỹ Xảo.
Cao hơn Thầy là “thầy của các thầy”. Người thấu-suốt mọi sự, nắm bắt Hiểu Biết trong Đất Trời, chính mình tìm lối đi riêng, là nhà “thong-thái” – trình độ Giáo Sư.
‘Thầy không có tâm’ cũng chỉ là một “thợ dạy”, chỉ là ‘người thầy nhỏ’. Người khô-khát ‘chuyền-đưa Hiểu Biết cho người chưa-thong’, dù chỉ là Người Thợ, chỉ biết “cầm tay trỏ việc”, thì vẫn là Đại Sư, tức ‘người thầy lớn’. Đó là người “thong-tuệ”.
Người “thong tuệ”, đầu óc “thong thái” chính là Đại Bổn Sư, tức ‘người thầy mở đường cho mọi người thầy’, là người “thong-minh”. “Thông minh” chỉ là “nghe cái hiểu liền”, đầu óc nhanh nhạy, có sức học, Tư Chất tốt đẹp; nhưng “thong-minh” là “thong-suốt và sáng tỏ”, vuông tròn cả Thể Xác và Trí Hiểu.
Người thông-minh học-giỏi nhưng chưa chắc yên vui. Người thong-minh, đã “thong-suốt và sáng tỏ sự-Đời”, sống “thong dong” trôi-xuôi theo dòng đời, lòng “thong thả” cùng Đất Trời, chắc-khắn “ung-dung tự-tại”.
.
Tóm lại: Từ THÔNG trỏ “thông minh nghe hiểu” khác Từ THONG trỏ ‘thong-suốt thấu hiểu’, và theo thuần-Lý “mỗi Từ một Nghĩa”, Chúng được ký-Âm khác nhau để rõ-ràng: “thông minh” chỉ là “tư chất học giỏi” còn “thong-minh” là “thong-suốt minh mẫn”, Nghĩa là “không-chỉ học được mà-còn làm giỏi, sống tốt”; “thông hiểu” chỉ là “lọt lỗ tai, nghe hiểu” còn “thong-hiểu” là “thong-thấu hiểu biết”, v.v.
Xin cho con không tranh-cãi đúng-sai ở việc tách-rạch này -, vì Nó còn nằm ở cái-Lý Chung Riêng rất khó phơi-bày trong một vài dòng (xin hẹn dịp khác).
Con đưa ra điều này là muốn nhấn mạnh: “Sự trong sáng của Tiếng-Việt” nằm ở chỗ Từ Đơn; Đơn-Âm-Tiết. Chỉ cần nhìn con-Chữ THONG và THÔNG là nắm bắt được Ý Nghĩa.
Trong Tiếng-Việt, khi được Quốc-Ngữ ký-Âm, chỉ cần nhìn Từ Đơn là có thể rõ-ràng. Tiếng-Việt trong sáng là ở chỗ đó. Từ-Đơn như một mảnh ghép rời-rạc nhưng rõ-ràng. Chỉ cần nắm chắc Từ Đơn là có thể nhanh nhẹn và dễ-nhàn nắm bắt Từ Ngữ, lại thêm khéo-léo và nhạy-bén lắp ráp các Từ Ghép.
.
Có thể nhiều Đồng Bào biết rõ điều trên, như phần đông Đồng Bào nhìn nhận Tiếng-Việt Đơn Âm Tiết, nhưng thật-sự, theo con nghĩ: Đồng Bào chỉ “hiểu mà không biết”, là chưa “thong-thấu sáng tỏ” Tiếng-Việt Đơn Âm Tiết, chưa “thong minh” về điều Cốt Lõi này, không biết dùng chiếc Chìa khóa Từ Đơn để tháo mở các Từ ngữ Tiếng-Việt.
Ví như với thắt-mắc Tiếng “dư dả” hay “dư giả”
https://www.facebook.com/photo/?fbid=811795587630032&set=a.586870363455890
Không chỉ ở chỗ trao đổi lần này, mà “từ trước tới giờ”, thấy rõ qua các Từ Điển “từ xưa tới nay”, Tiếng này chưa bao giờ được soi-xét dựa vào điểm Mấu Chốt Đơn-Âm-Tiết, tức tách-rạch từng Từ Đơn. Từ đó mà Nó rất u-bí, nảy-sanh tệ trạng “viết theo lối Ám Tả”, là ‘từ điển ra sao thì tin vậy’, ‘thầy cô dạy sao thì học vậy’, ‘cha mẹ nói sao thì biết vậy’, rồi cho rằng những cách viết khác… là “viết sai Chính Tả”! (Đó cũng là ‘Biết mà không Hiểu’)
Con xin thuyên-giải Từ DÃ, dựa vào Chữ-Nho, như sau:
DÃ [野] -, Bộ LÝ [里] trỏ Ý ‘đồng quê’ (trong Tiếng-Việt, Chữ LÝ này thấy trong 'các bài lý' là 'các bài hát đồng quê'), như: dã ca, dã ngoại, dã chiến, thôn dã, v.v. Từ đó phát-sanh các Ý:
(1) ‘Dân gian’, như: dã sử, điền dã, v.v.
(2) 'Đơn thuần, hồn nhiên, thật chất’, như: dã cầm, dã-tâm hiền lành, dã thú (thú vui dân dã), dân dã chất phác, sơn dã hữu tình, thiên nhiên hoang dã hùng vĩ…
(3) ‘Rộng thênh’, vì ‘đồng quê thẳng cánh cò bay; đất trời cao lớn’, có Nghĩa “rất, vô cùng”, như dư-dã thừa mứa (“dư dả”), sung-túc khá-dã (“khá giả”)…
-, Ngoài ra, do tâm-lý “coi nhẹ dân dã”, lệch-lạc “xem quê-mùa là cục-mịch thô-kệch, ít biết kém hiểu”, không nhìn nhận bổn-chất, nảy-sanh Ý ‘cục súc, ngang ngạnh’, như: dã man hung dữ, dã tâm đen tối, dã thú độc ác…
Tưởng nghĩ: Theo phép Thuần Lý Trừu-Tượng và Cụ Thể: Từ DÃ Trừu Tượng “đồng quê”, từ đó móc nối đến các Nghĩa Cụ-Thể: (1) Dân gian; (2) Đơn thuần, hồn nhiên, thật chất; (3) Rất, vô cùng (rộng lớn, thoáng đãng)…
Khi nắm bắt Từ Đơn DÃ, rõ ràng Chữ “dư dả”, “khá giả” quen-thuộc chỉ-là Chữ ghi-Âm. Tiếng “dư dả” ghi theo luật Hài-Thanh Nguyễn Đình với Tiếng “dả” là Tiếng-láy của Từ DƯ. Tiếng “khá giả” là Chữ ghi-Âm tiếng nói, có thể do Phương Ngữ, phát-Âm “dờ” là “giờ”; “dã” là “giả”. Rành rành Tiếng Đôi DƯ-DẢ và KHÁ-GIẢ, Xưa được nhận biết qua dấu-Nối ở giữa, kiểu như Chữ ghi-Âm các Tiếng Nước-ngoài theo lối Đơn Âm Tiết, giúp Bạn Đọc nhận biết. Tiếng Đôi là ‘Từ Ngữ phải đi đôi với nhau mới có Nghĩa'. Khi Tiếng-Việt u-bí, cứng ngắt lọi-bỏ dấu-Nối ra khỏi Chữ-viết, không còn dấu hiệu nhận ra Tiếng Đôi, không thể biết Từ Đôi, nhiều Bạn Đọc cứ ngờ-nghệch ‘tách Chữ tìm Nghĩa’. Đó là Chữ ghi-Âm, không có Nghĩa thì làm sao mà tìm.
.
Không chỉ ở Từ DÃ trong Tiếng Đôi “dư dả”, “khá giả” mới thấy Đồng Bào đang như rơi vào tệ-trạng “người mù sờ voi”. Sự thật, Tiếng-Việt hiện nay đầy tràn các Từ Ngữ u-bí như thế. Ví như các Tiếng Đôi mà con đã giải-bày thành Từ Ghép ở đây, bài viết: Phơi Bày “Giả Chính-Tả” Qua Tiếng-Đôi
https://www.facebook.com/quocnguviet/photos/a.100543888063135/848367323280784
Con cúi xin Đồng Bào soi-xét để tỏ rõ tệ-trạng này.
Tam giác vuông tròn tròn méo tròn tam giác vuông tròn
Like and Sub để ủng hộ mình có những clip hay cho các bạn nhé ! ►►►SUBSCRIBE TO CHANNEL◄◄◄